Tìm Kiếm

Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tôn giáo trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN Ở VIỆT NAMHIỆN NAY

Như trên đã trình bày, chúng ta thấy rõ Hồ Chí Minh luôn có thái độ trân trọng đối với các Tôn giáo và các vị sáng lập ra các Tôn giáo. Chưa bao giờ Hồ Chí Minh có một biểu hiện nào dù là rất nhỏ để chứng tỏ là Người công kích, chế diễu đối với một Tôn giáo nào.
Tuy nhiên, Người cũng có thái độ rất kiên quyết, đấu tranh không khoan nhượng đối với các tổ chức lợi dụng tôn giáo vào mục đích xấu, lợi dụng tôn giáo làm công cụ cho chủ nghĩa thực dân.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với sự nghiệp cách mạng đã làm nên sức mạnh ở mỗi cánh tay, đã làm nên chất thép ở niềm tin vào con người và từ bi đối với con người”[1], nhân ái cao cả với con người. “Hồ Chí Minh là Người kế thừa, tiếp thu tất cả các giá trị nhân bản của văn hoá dân tộc, văn hoá nhân loại, nhưng không lặp lại và đi theo một nguyên lý nào. Trong tư tưởng của Người có tinh tuý của văn hoá Việt Nam truyền thống, có cả các yếu tố Triết lý Nho giáo, Phật Giáo, Kitô giáo, có hạt nhân hợp lý của trào lưu dân chủ tư sản Tây phương, có những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin”[2].
Cái độc đáo, kỳ diệu là ở Hồ Chí Minh tất cả những yếu tố đó đã được Người tổng hợp lại và “hoá giải” tạo nên một tư tưởng khoa học cách mạng rất riêng không thể lẫn với bất kỳ tư tưởng của vĩ nhân hay tổ chức chính trị-xã hội, tôn giáo nào. Toàn bộ tư tưởng, sự nghiệp và cuộc đời Người là hiến dâng cho củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm thực hiện bằng được “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”; “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”; “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Namquyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[3].
Quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là bộ phận quan trọng trong toàn bộ tư tưởng của Người. Với cương vị là người đứng đầu Nhà nước và Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở nền tảng của tư tưởng và là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta. Đồng thời Hồ Chí Minh là Người luôn nêu cao và quán triệt chủ trương đúng đắn của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam: Tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, đồng thời phê phán nghiêm khắc những thái độ, hành vi xâm phạm hoặc phương hại đến quyền tự do chính đáng đó. Thái độ trân trọng của Người đối với các tôn giáo và các vị sáng lập ra các tôn giáo là thể hiện quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam luôn coi đồng bào theo các tôn giáo, cũng như các tôn giáo đang tồn tại trên đất nước Việt Nam là một lực lượng to lớn và tích cực của cách mạng Việt Nam, cả trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, cả trong xây dựng CNXH hiện nay.
Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới đưa đất nước quá độ lên CNXH chấp nhận nền kinh tế thị trường, đạo đức, lối sống của thanh niên và của cả một số cán bộ, đảng viên luôn đứng trước những thách thức bị suy thoái thì chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Nó vừa có giá trị trong việc tôn trọng giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng nền văn hoá Việt Nam mới hiện đại ngang tầm với thời đại. Nó vừa có giá trị tạo ra một sức mạnh tổng hợp của đại đoàn kết toàn dân tộc giúp “cán bộ ở cấp càng cao càng phải gương mẫu, càng phải giữ gìn phẩm chất đạo đức, thực hiện tốt “tu thân, tề gia”;  “cần, kiệm, liêm, chính” theo Nghị quyết BCHTWĐCS Việt Nam lần thứ 3 khoá VIII[4], và để cùng xây dựng được một trong hai đức tính của con người Việt Nam mới theo Nghị quyết BCHTWĐCS Việt Nam lần thứ 5 khoá VIII là: “có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng”[5].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo cũng đồng thời nhắc nhở mỗi chúng ta phải có một thái độ khách quan, đánh giá một cách khách quan, khoa học để tìm ra được những giá trị nhân bản, nhân đạo, nhân văn tích cực trong mỗi tôn giáo mà kế thừa, và phát huy cho phù hợp với sự phát triển của đất nước trong thế giới hiện đại. Tất cả mọi người Việt Nam không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng đều thực sự đoàn kết xây dựng nước Cộng hòa XHCN Việt Nam theo mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Hiện nay, tôn giáo vẫn đang là nhu cầu tinh thần của một bộ phận không nhỏ trong cư dân Việt Nam. Sự tồn tại của các tôn giáo trong đời sống xã hội Việt Nam là còn lâu dài. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng đều nhất quán về tính nguyên tắc của đổi mới là vì phát triển của con người. Mọi công dân có tín ngưỡng đều phấn đấu sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần xây dựng CNXH. Toàn Đảng, toàn dân cần tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đồng thời phải đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Ở đây, một lần nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là ngọn đuốc soi sáng đường chúng ta đi. Chúng ta không vì hết sức tôn trọng, trung thành tuân thủ chủ nghĩa Mác-Lênin mà coi thường các anh hùng, các vĩ nhân của dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh trong khi phê phán những mặt tiêu cực trong các Tôn giáo, Người cũng đã từng ca ngợi với những lời hết sức tốt đẹp về Đức Phật, Chúa Giêsu, Khổng Tử... Với Hồ Chí Minh điều quan trọng là biết phát hiện, trân trọng nâng niu những mặt tốt, những mặt tích cực trong mỗi giáo lý, trong mỗi con người. Tất cả vì giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí Minh chỉ trừ hạng người phản lại Tổ quốc, phản lại  nhân dân, còn ngay cả với những hạng người xấu thì “ta càng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”[6].
Với chúng ta hiện nay, công tác tôn giáo không chỉ là vấn đề chính sách, mà phải thật sự là hoạt động thực tiễn cách mạng. Chúng ta rất cần và nhất thiết phải đào tạo các cán bộ làm công tác tôn giáo từ địa phương đến trung ương ngang tầm với yêu cầu của lịch sử: Có tri thức khoa học về Tôn giáo; Có thái độ cách mạng, khách quan, khoa học đối với Tôn giáo và đặc biệt là phải am hiểu, nắm bắt được cái tinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Tôn giáo, am hiểu, nắm vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân; Có nhiệt huyết với công tác Tôn giáo trong vận động đồng bào có tín ngưỡng Tôn giáo tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam XHCN.



[1] Nguyệt san Giác ngộ, số 2, tháng 5/1996, trang 59-60.
[2] Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 1997, Trang 78.
[3] Xem Sđd, Tập 4, Trang 1-5.
[4] Tạp chí Triết học, số 3/1998, trang 48.
[5] ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị BCHTW lần thứ 5, khóa VIII, Nxb CTQG, Hà Nội 1998, trang 59.
[6] Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 12, Trang 558.