HỒ CHÍ MINH, NHÀ LÝ LUẬN THIÊN TÀI
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
Hoàng Ngọc Vĩnh, ĐHKH Huế
Sinh thời, Hồ Chí Minh không tự nhận mình là một nhà lý luận. Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người là sự lặn lộn với thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới để tìm ra con đường cách mạng khoa học đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Tuy nhiên, Người từng dạy chúng ta rằng: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”[1]; “Nguyên nhân của bệnh chủ quan là: kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”[2]; “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”[3]; “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận... Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích”[4]... Cách nói, cách viết của Người là làm sao cho dân ta ai cũng hiểu được, nhớ được và làm được. Vì thế, cùng một khái niệm, một vấn đề, nhưng với các đối tượng người khác nhau, với tính chất của các hội nghị khác nhau, Người đã có nhiều cách khác nhau để diễn đạt nó.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người, với di sản vô giá Người để lại cho mai sau chứng tỏ Hồ Chí Minh không chỉ là một thiên tài tổ chức, thực hiện thực tiễn, mà Hồ Chí Minh còn là một nhà lý luận thiên tài của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Dân tộc Việt Nam:
1. Ngày 3/2/1930, khi sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc chính là người đầu tiên đã chấm dứt sự khủng hoảng đường lối cứu nước kéo dài gần 100 năm của cách mạng Việt Nam, khai sinh nền lý luận cách mạng mới của Việt Nam.
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, triều đình phong kiến Việt Nam bạc nhược đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, nhục nhã nhất là sự nhượng bộ với thực dân Pháp bởi Hiệp ước Patanôt 1883, làm cho Việt Nam mất hết quyền độc lập dân tộc và tự do của nhân dân. Kể từ đây, phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam đã phát triển rầm rộ, rộng khắp cả nước với nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng rốt cục đều thất bại, vì chưa có đường lối cách mạng khoa học dẫn đường.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào bế tắc về đường lối cứu nước, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước đầu tiên tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Sau gần 10 năm bôn ba năm châu, bốn biển, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa của chúng, đặc biệt là thực thi dân chủ tư sản trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thức được xu hướng phát triển của thời đại, từ bỏ lập trường dân chủ tư sản để đến với dân chủ vô sản.
Qua các tác phẩm của Người: “Bản yêu sách tám điểm” 1919, “Đường Kách mệnh” 1927, “Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” 1930, phải thấy rằng, từ một người Việt Nam yêu nước nồng nhiệt, Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người Việt Nam Cộng sản đầu tiên, rồi nhanh chóng trở thành một trong các lãnh tụ của Quốc tế Cộng sản. Từ đó Người đã rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Lênin vạch ra, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối cách mạng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu cao cả giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
2. Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
a) Độc lập - tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát và là nội dung lớn nhất và bao trùm nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ 1919, trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hội nghị Véc-xây, Hồ Chí Minh cũng chính là người Việt Nam đầu tiên đã thống nhất hai nội dung Độc lập dân tộc và Tự do của nhân dân trong lịch sử Việt Nam.
Dưới ánh sáng “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc. Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động, sáng tạo và có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây.
Đây không chỉ là một luận điểm sáng tạo mà còn là sự phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ nó, Người đã cùng Đảng ta đề ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược, lãnh đạo nhân dân đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi lịch sử Tháng Tám năm 1945. Cuộc cách mạng đã mở ra kỷ nguyên độc lập tự chủ cho dân tộc Việt Nam, và là cuộc cách mạng giành chính quyền nổ ra trong thời gian ngắn nhất, tổn thất nhỏ nhất mà chiến thắng lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, thay mặt cho toàn dân tộc Việt Nam, Người trịnh trọng tuyên bố với toàn thế giới: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc... Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[5]. Trong các lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tuyên bố: “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Nam , Bắc là một nhà. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”[6]. “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn, thì cũng phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”[7]. “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài 5 năm, mười năm, hai mươi năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá, thì chúng ta cũng phải quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”[8].
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”[9]là chân lý sáng ngời thời đại do Người vạch ra mãi soi sáng cho cách mạng Việt Nam và cách mạng nhân loại.
b) Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, bao trùm và xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nếu trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hội nghị Véc-xây là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc với tự do của nhân dân, thì trong “Đường Kách mệnh” và trong “Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc với CNXH. Thì kể từ “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” đến các “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” sau này, trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc gắn liền với CNXH và quyết tâm cao nhất của dân tộc nhằm giữ vững mục tiêu cao cả Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam . Đây là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội nói chung và cách mạng xã hội chủ nghĩa nói riêng trong thời đại ngày nay.
Suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, Người chỉ có một “ham muốn tột bậc là nước phải hoàn toàn được độc lập, dân phải hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng phải được học hành”[10]. Vì thế, sự nghiệp cách mạng Việt Nam là Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Người khẳng định: Độc lập dân tộc là điều kiện để xây dựng CNXH, CNXH là nhân tố bảo đảm cho độc lập dân tộc được thực hiện một cách triệt để. Nghĩa là nước được độc lập thì dân cũng phải được hoàn toàn tự do, ấm no, hạnh phúc, sung sướng.
Sự phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện ở các điểm chính sau:
Thứ nhất: Bằng việc đặt ra và trả lời câu hỏi “chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì?”, trên cơ sở tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin từ các phương diện đạo đức, văn hóa, xã hội,.. tùy vào các đối tượng người Việt Nam khác nhau, các góc độ xem xét và mục đích của mỗi Hội nghị khác nhau, mà Hồ Chí Minh đưa ra nhiều định nghĩa về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ những quan điểm cụ thể khác nhau ấy của Người về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mà Người đã xác đinh CNXH ở Việt Nam có 5 đặc trưng bản chất.
Khi trả lời cho câu hỏi “Làm gì để có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?”, Hồ Chí Minh đã xác định 5 mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các mục tiêu này quan hệ biện chứng với 5 đặc trưng bản chất, là sự cụ thể hóa 5 đặc trưng bản chất của CNXH ở Việt Nam.
Những đặc trưng bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, đã chứa đựng trong đó một hệ thống các giá trị đặc thù, mà giá trị trung tâm là con người với các nhu cầu lợi ích của nó. Con người là mục tiêu phát triển.
Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là xã hội của con người, vì con người, chế độ xã hội đó mang bản chất dân chủ, nhân đạo trong tiến trình vận động xã hội loài người.
Thứ hai, khi trả lời cho câu hỏi “Làm gì để có chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?”, Hồ Chí Minh đồng thời đã chỉ ra các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
Một: Động lực hiểu theo nghĩa rộng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sử dụng đồng bộ các đòn bẩy về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,.. kích thích tính tích cực của người lao động. Ở nghĩa rộng, Người nhấn mạnh hai nội dung: Tính đồng bộ trong sử dụng các đòn bẩy và trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong sử dụng đồng bộ các đòn bẩy.
Hai: Động lực hiểu theo nghĩa hẹp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề con người. Động lực con người với tư cách là con người cộng đồng, Người nhấn mạnh đó là Đại đoàn kết toàn dân tộc. Động lực con người với tư cách là con người cá nhân, Người khẳng định đó là con người mới XHCN ở Việt Nam.
Sự phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện ở những điểm chính sau:
Thứ nhất: Nếu điễn đạt như Mác, Ăngghen và Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, thì Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa và phong kiến tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Người khẳng định tính chất của nó là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa CNXH và CNTB ở Việt Nam.
Tư tưởng này với thực tiễn đưa miền Bắc lên CNXH, Hồ Chí Minh không chỉ trung thành, mà đã phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện Việt Nam, làm cho lý luận quá độ gián tiếp lên CNXH theo hình thức thứ hai của Lênin đầu tiên trở thành hiện thực.
Thứ hai: Trong điều kiện giáo điều, người ta đã quên lời dạy của Lênin “Không có CNXH giống nhau cho mọi dân tộc, chỉ có CNXH phù hợp với từng dân tộc”, bắt cả thế giới phải tuân thủ một “mô hình CNXH”, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý chung giống nhau, nhưng mỗi nước có đặc điểm lịch sử cụ thể khác nhau nên phương thức, biện pháp, bước đi cách làm khác nhau. Người nhắc nhở, việc học tập những kinh nghiệm nước ngoài là rất cần thiết. Nhưng Người cũng nhấn mạnh: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”[11]. Làm khác, thậm chí làm trái với Liên Xô, ta vẫn là mac-xit.
Tư tưởng này và thực tiễn quá độ lên CNXH ở miền Bắc, đã chứng minh Chủ tịch Hồ Chí Minh không những trung thành với Lênin, mà còn chứng minh sự đúng đắn, khoa học của tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và đổi mới của Người.
Thứ ba: Hồ Chí Minh là người đầu tiên ở phương Đông chủ trương xây dựng CNXH với nền kinh tế nhiều thành phần. Trong sửa sai cải cách ruộng đất, từ 1955 Người đã chủ trương và quy định cho người nông dân miền Bắc có ruộng 5%. Trong lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc ngày ấy, Người thường bàn về kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Điều này một lần nữa cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trung thành và vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin trong “Chính sách kinh tế mới” và Việt Nam. Đồng thời, quan điểm ấy cho đến nay đã và đang là một động lực to lớn của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Thứ tư: Hồ Chí Minh là người đầu tiên trên thế giới chủ trương chia nhỏ thời kỳ quá độ lên CNXH thành nhiều bước đi. Người không chỉ rõ phải chia thời kỳ quá độ lên CNXH thành bao nhiêu bước đi, nhưng thông qua các cách diễn đạt khác nhau của Người về tiến dần lên CNXH ở Việt Nam, thì cách chia nhỏ của Người là quy mô, trình độ, tốc độ của mỗi bước đi phải tùy thuộc vào thành tựu của quá trình CNH, HĐH đất nước ở mỗi thời kỳ.
Thứ năm: Xuất phát từ trình độ rất thấp của Việt Nam, mà Người đã chỉ ra tầm quan trọng to lớn của quyết tâm dân tộc khi thực hiện mục tiêu CNXH. Người từng dạy, làm CNXH ở Việt Nam là “kế hoạch 10 phần, thì biện pháp phải 15 phần và quyết tâm phải 20”[12].
Thứ sáu: Theo Hồ chí Minh muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải đảm bảo 4 nguyên tắc:
Một: Phải đảm bảo một cách tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam .
Hai: Phải nâng cao trình độ, năng lực quản lý nhà nước đối với toàn xã hội.
Ba: Phải mở rộng và tăng cường hoạt động chủ động và tích cực có hiệu quả của các tổ chức chính trị quần chúng.
Bốn: Phải đào tạo đủ đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của lịch sử.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác-Lênin đã Việt Nam hóa bởi Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhất là tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã và đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới hiện nay, nhằm ra sức phát triển kinh tế, văn hoá làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ vững độc lập chủ quyền tòan vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt trong điều kiện Đảng đã nắm chính quyền (Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền), là một đóng góp mới vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Để bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”.
Quan điểm nhất quán của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam là: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người nêu yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thành một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Người cũng luôn nhấn mạnh đảng viên phải suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tuỵ của nhân dân. Người đòi hỏi Đảng ta một mặt phải ra sức nâng cao trí tuệ cho ngang tầm nhiệm vụ lịch sử, mặt khác phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường mối liên hệ máu thịt với nhân dân. Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước.
Trong xây dựng Đảng về tư tưởng - lý luận, Người chỉ rõ: “... chỉ có đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong, đảng cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong”, “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”[13]...
Để đạt mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời nắm vững tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Không máy móc, kinh viện, giáo điều.
Vì vậy, trong tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý những điểm sau đây: Học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với hoàn cảnh và từng đối tượng; Vận dụng phải phù hợp từng hoàn cảnh; Chú ý học tập, kế thừa kinh nghiệm tốt của các Đảng cộng sản khác, tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung cho chủ nghĩa Mác-Lênin; Đảng tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Lý luận xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự trung thành của Người với những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Lênin. Đồng thời quan điểm xây dựng “Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của Dân tộc, Đảng của Nhân dân Việt Nam”[14]là sự phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin của Người về xây dựng Đảng Cộng sản trong điều kiện mới.
4. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” . Luận điểm nổi tiếng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát huy cao nhất truyền thống cố kết dân tộc cao của dân tộc Việt Nam, và đã trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh cùng với đạo đức và nhân cách vô cùng cao thượng và trong sáng của Người đã quy tụ được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đấu tranh vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Mẫu số chung của đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước. Với mẫu số chung này, Người đã đoàn kết được mọi con dân Việt Nam, làm nên sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam để chiến thắng mọi kẻ thù.
Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội, đồng thời cũng là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người luôn luôn coi trọng bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, và cũng luôn nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của nhà nước. Là nhà yêu nước vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là nhà quốc tế chủ nghĩa trong sáng, hiện thân của tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Người nói: Cách mệnh Việt Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân Việt Nam cả.
Toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người, Hồ Chủ Tịch nhờ kế thừa và phát huy thành công truyền thống quý báu của dân tộc “sử ta dạy cho ta bài học: khi nào dân ta đoàn kết thì độc lập của nước ta được giữ vững, khi nào dân ta không đoàn kết thì độc lập của nước ta có nguy cơ bị xâm phạm”[15]; Người đánh giá đúng, đề cao sức mạnh và phát huy tinh thần quật cường của “nhân dân ta có truyền thống nồng nàn yêu nước, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng thì triệu người như một xông lên phía trước, quyết giữ gìn và bảo vệ độc lập dân tộc”[16], mà luôn thực hiện đường lối cách mạng đại đoàn kết toàn dân, với nguyên tắc “tin dân, dựa vào dân”, khẳng định sức mạnh vô tận, vô địch của dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng qua”[17], “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”[18]; Và một trong các cơ sở của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc theo phương châm “quân với dân như cá với nước”[19], “tất cả sức mạnh đều từ dân mà ra”[20].
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, lâu dài, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh mãi mãi là một sức mạnh làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam .
5. Xây dựng Nhà nước Việt Nam thành Nhà nước của dân, do dân và vì dân là cống hiến vĩ đại của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước.
Từ việc nghiên cứu kỹ các mô hình nhà nước trong lịch sử dân tộc cũng như trên thế giới, Người đã lựa chọn một mô hình nhà nước phù hợp với thực tế của Việt Nam : nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân là một cống hiến về lý luận và thực tiễn to lớn và đặc sắc của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Bản chất dân chủ triệt để của nó; Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước; Kết hợp cả đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội.
a) Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Trong đấu tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[21].
Sau khi giành độc lập, Người khẳng định, “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[22].
Điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử là Nhà nước của dân; Nhà nước do dân; Nhà nước vì dân.
Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài. Trách nhiệm của Nhà nước là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, mà trước hết là: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”[23]; “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”[24]
Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài, vừa hiền lại vừa minh.
Hồ Chí Minh là người Chủ tịch suốt đời vì dân. Người tâm sự: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ Quốc, và hạnh phúc của nhân dân”[25].
b) Nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng tuyệt nhiên nó không phải là “nhà nước toàn dân” hiểu theo nghĩa nhà nước phi giai cấp, mà Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Quan điểm của Người là: “Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công - nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”[26].
Điều này được thể hiện: Nhà nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước định hướng đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội; Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước có cơ sở khách quan là ở chỗ giai cấp công nhân lãnh đạo Nhà nước, mà “quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc là một”[27]. Giai cấp công nhân không có lợi ích nào khác lợi ích của dân tộc, của nhân dân và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp công nhân một cách triệt để.
c) Tư tưởng về một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ là giá trị đặc sắc cả về lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đó thể hiện ở một số nội dung chính sau đây:
Xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến: Ngay sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinhNhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhờ đó, Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp và Tuyên ngôn độc lập trở thành một văn bản pháp lý nổi tiếng.
Sau đó, Người bắt tay xây dựng Hiến pháp dân chủ, tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chính phủ hợp hiến là do nhân dân bầu ra. Chính phủ ấy mới có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
Nhà nước pháp quyền nhân dân là hoạt động quản lý nhà nước phải bằng Hiến pháp, Pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống: Theo Hồ Chí Minh, dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước. Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật; và ngược lại, hệ thống pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.
Người đặc biệt quan tâm và có công lớn trong sự nghiệp lập hiến, lập pháp của nước ta. Người luôn chăm lo hoàn thiện hệ thống pháp luật dân chủ nhân dân.
Theo Người, công bố luật mới chỉ là bước đầu, phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện luật được tốt. Phải đưa pháp luật vào đời sống một cách sâu rộng. Phải “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”[28]. Pháp luật phải xét xử công bằng, nghiêm minh, “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề gì”[29].
Trong Nhà nước của dân, do dân và vì dân đội ngũ cán bộ, công chức phải đủ đức và đủ tài: Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức. Người coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[30].
Những tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ, công chức mà Người quan tâm xây dựng là: Tuyệt đối trung thành với cách mạng; Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ; Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Hồ Chí Minh hiểu rõ xu hướng quan liêu hoá khó tránh khỏi của bộ máy nhà nước, nên Người luôn nhắc nhở công chức nhà nước phải gần dân, trọng dân, không được “lên mặt quan cách mạng” với dân, phải lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ, sáng suốt.
d) Nhà nước của dân, do dân và vì dân là phải xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhà nước ấy phải đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước như: Đặc quyền, đặc lợi; Tham ô, lãng phí, quan liêu; Tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Phải tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật di đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đời sống cộng đồng người Việt Nam được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử. “Phép trị nước” của Hồ Chí Minh là kết hợp cả “pháp trị” và “đức trị - nhân trị”; “pháp trị” rất nghiêm khắc, công minh và “đức trị - nhân trị” cũng rất tình người, bao dung, thấu tình đạt lý.
Thực tế đó cho thấy rằng, Hồ Chí Minh là một nhà lập pháp sắc sảo, đồng thời là một nhà hành pháp nghiêm minh. Pháp quyền trong tư tưởng của Người là pháp quyền nhân nghĩa rất đặc sắc.
e) Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân vào việc xây dựng nền dân chủ và Nhà nước kiểu mới ở nước ta hiện nay, Nhà nước ta đã và đang tập trung vào những việc cần làm ngay là: Nhà nước phải bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân; Phải kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, làm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước pháp quyền XHCN có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ; Phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước.
6. Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một trong những nguyên thủ quốc gia rất hiếm của thế giới đã quan tâm đến đạo đức một cách toàn diện và cụ thể, hệ thống và chi tiết.
Người chỉ rõ: Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một thể thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với tài năng, giữa nói và làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường.
Suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, vấn đề đạo đức cách mạng luôn được Người quan tâm ở vị trí hàng đầu. Đạo đức mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm và dày công vun đắp cho dân tộc Việt Nam là đạo đức suốt đời vì hạnh phúc nhân dân.
Người đề ra những chuẩn mực đạo đức cụ thể phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng đối tượng người Việt Nam . Với thiếu niên nhi đồng, là năm điều Bác dạy[31]. Với thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, Người có sáu lời khuyên[32]. Với quân đội và công an, Người quy định 12 điều kỷ luật, mà đòi hỏi những phẩm chất đạo đức của lực lượng vũ trang là: “Trung với Đảng, hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ Quốc, vì Chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[33]. Với đảng viên, Người nhấn mạnh bốn chuẩn mực[34].
Với cán bộ công chức nhà nước, Người quy định 6 điều nên làm và 6 điều nên tránh để cán bộ công chức Nhà nước phải là công bộc của dân, đầy tớ trung thành của nhân dân. Với giáo viên, Bác dạy phải là tấm gương 4 mặt. Với đội ngũ y, bác sỹ, Bác dạy “lương y như từ mẫu”. v.v.
Những chuẩn mực đạo đức chung, cơ bản và phổ cập đối với mọi người do Người quy định có thể khái quát lại là: Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung.
Trong tính cụ thể, chi tiết về những chuẩn mực đạo đức cách mạng, Người quy định đúng cho từng đối tượng người, ngành nghề, giới tính, lứa tuổi, và những chuẩn mực chung có ý nghĩa cơ bản mang tính phổ cập của đạo đức con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được Hồ Chí Minh quy định còn thể hiện cả trên ba bình diện: Với tự mình phải rất nghiêm khắc; Với người phải thật sự khoan dung, độ lượng; Với công việc phải tận tâm, tận lực.
Trước Cách mạng Tháng Tám, chuẩn mực đạo đức được Người đặt lên hàng đầu là vì độc lập của Tổ Quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám, mối quan tâm hàng đầu về chuẩn mực đạo đức của Người là liêm chính chí công vô tư, chăm lo cung phụng lợi ích của nhân dân.
Người quy định 12 tư cách của Đảng chân chính cách mạng và căn dặn: “Muốn cho Đảng được vững bền, Mười hai điều đó chớ quên điều nào”[35]. Về đạo đức cách mạng của Đảng chân chính, Người viết: “Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư”[36]. Người cũng quy định 6 điều về tư cách và 6 điều về bổn phận của đảng viên[37]. Ở đó, Người nhắc nhở, phải luôn là kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi công việc. “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”[38].
Người kêu gọi: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân”[39].
Trước khi đi gặp Cụ Các Mác, Cụ Lênin, Người căn dặn, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi, “trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”[40].
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, có sức sống mãnh liệt, đã sớm đi vào nhân dân, được nhân dân tiếp nhận. Cùng với tư tưởng đạo đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một đóng góp có giá trị vào triết học về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Kết luận: Ngày nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đứng trước những thách thức to lớn từ bối cảnh quốc tế và trong nước, công tác lý luận của Đảng ta vì thế không phải không có những khó khăn nhất định, thì việc nghiên cứu, học tập, bảo vệ, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế cuộc sống càng trở nên tối cần thiết và rất quan trọng. Đặc biệt, noi gương và làm theo nhà lý luận thiên tài Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân tộc ta hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh ngày nay đã là di sản vô giá không chỉ của dân tộc Việt Nam, mà là của nhân loại. Trải qua mọi biến động thời cuộc, tư tưởng Hồ Chí Minh càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh tinh hoa của dân tộc Việt Nam và trí tuệ của thời đại mãi mãi soi sáng cho cách mạng Việt Nam.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, trang 496.
[2] Sđd, tập 5, trang 233.
[3] Sđd, tập 5, trang 234.
[4] Sđd, tập 5, trang 235.
[5] Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, trang 1-4.
[6] Xem Sđd, tập 4, trang 246; tập 12, trang 516.
[7] Xem Sđd, tập 11, trang 508; Chỉ từ 1965 đến 1969 Người đã nhắc cụm từ “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” khoảng 60 lần trong các Thư khen và các Lời kêu gọi (xem tập 11 và tập 12).
[8] Xem Sđd, tập 12, trang 108.
[9] Sđd, tập 12, trang 109.
[10] Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, trang 161; tập 12, trang 517.
[11] Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, trang 227.
[12] Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, trang 54.
[13] Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, trang 268.
[14] Xem Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 175.
[15] Xem Sđd, tập 3, trang 217.
[16] Xem Sđd, tập 6, trang 171.
[17] Xem Sđd, tập 12, trang 212.
[18] Sđd, tập 10, trang 349, 350, 607. Tập 12, trang 517.
[19] Sđd, tập 11, trang 350.
[20] Xem Sđd, tập 4, trang 101; tập 5, trang 55, 409.
[21] Sđd, tập 2, trang 270.
[22] Sđd, tập 5, trang 698.
[23] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, tr.152
[24] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, tr.57
[25] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, tr.240
[26] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 9, tr.586
[27] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 6, tr.175
[28] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 12, tr.223
[29] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 5, tr.641
[30] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, tập 5, tr.273.
[31]Xem Sdd, Tập 4, trang 421.
[32] Xem Sdd, Tập 5, trang 185-186.
[33] Xem Sdd, Tập 11, trang 350.
[34] Xem Sdd, ,Tập 9, Trang 285.
[35] Xem Sdd, Tập 5, Trang 250.
[36] Xem Sdd, Tập 5, Trang 251-253.
[37] Xem Sdd, Tập 5, Trang 265-266.
[38] Xem Sdd, Tập 5, Trang 293.
[39] Xem Sđd,Tập 12, Trang 439.
[40] Xem Sđd,Tập 12, Trang 503.