Tìm Kiếm

Hồ Chí Minh với Công giáo ở Việt Nam

Hồ Chí Minh với Công giáo ở Việt Nam

Công giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới (Công giáo, Hồi giáo, Phật giáo) ra đời ở thế kỷ I thuộc vùng đất Palextin ngày nay. Khi mới ra đời  Công giáo là Tôn giáo của những người nô lệ, cùng khổ, về sau nó trở thành tôn giáo của các giai cấp thống trị. Công giáo du nhập vào Việt Namvà phát triển cùng với  quá trình bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây vào thế kỷ XVI - XIX. Tuy nhiên, cũng như bất cứ văn hóa nước ngoài nào, Công giáo khi du nhập vào Việt Nam, thì nó đã được Việt Nam hóa. Vì thế, Công giáo ở Việt Nam đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam.
Điều đáng chú ý trong suốt mấy trăm năm, Công giáo ở Việt Nambị chi phối bởi đường lối chính trị thực dân xâm lược, quay lưng lại với dân tộc. Công giáo ở Việt Nam chỉ tập trung tuyên truyền “Chúa trên hết”, “tất cả vì Chúa”, mà không đặt vấn đề ý thức dân tộc, trách nhiệm với quê hương xứ sở. Do đó có những tín đồ tin rằng có thể mất hết, miễn là còn linh hồn, còn Chúa. “Công giáo Việt Namnhư mắc phải một thứ “tội tổ tông”... Đó là mối liên quan rất chặt chẽ giữa truyền bá và phát triển  tôn giáo với âm mưu xâm lược và chính sách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Ngay nhiều giáo đồ Công giáo cũng đã thấy rõ và công khai nêu lên những điều đó”. Nguyễn Tư Lộc viết trong tập san “Công giáo và dân tộc” (xuất bản ở Pa ri số 1 - 1969): “...cái bi đát sẽ mang tới nhiều chuyện cho Công giáo là sự truyền đạo trùng hợp với sự xâm lăng của Tây phương vào đất nước ta” và “các điều kiện lịch sử , văn hóa của một thời gian dài mấy thế kỷ đã tạo ra một thái độ chính trị truyền thống của Công giáo Việt Nam: dựa vào một phong trào thực dân để thiết lập, dựa vào thế lực thực dân để phát triển và sống còn, gần gũi với Tây phương trong tín ngưỡng tôn giáo, thái độ thân phương Tây là thái độ căn bản... Trong những điều kiện như vậy, chẳng những người Việt Nam theo đạo đã bị lợi dụng cho những mục tiêu bất chính của chủ nghĩa thực dân, mà chính Công giáo trong bản chất tôn giáo cũng bị lợi dụng, biến tướng, sai lệch, không sao phát triển  tinh thần của nó”. “...Lịch sử của đạo xen lẫn ánh sáng và bóng tối,.. khi đạo được tự do truyền bá thì dân tộc bị làm nô lệ, kể cả dân có đạo. Khi giáo hội được tôn vinh là trưởng nữ của hội Thánh ở Á đông thì hai tiếng Việt Nambị xóa tên trên bản đồ thế giới. Còn gì nhục bằng cái nhục bị mất nước, còn gì đau khổ bằng nô lệ, làm thân ngựa trâu, lúc đó giáo hội ở đâu? Ai là người tìm vinh quang cho riêng mình ? Ai là người say mê quyền lực trần thế? Ai là người lên tiếng vì tình thương, lẽ phải và đạo lý chân thực”.
Sự thực lịch sử  trong 4 thế kỷ qua, đặc biệt trong 100 năm lại đây khi chủ nghĩa thực dân xâm lược Việt Nam, thì Giáo hội Công giáo Việt Nam và những người Công giáo Việt Nam luôn ở trong bi kịch. Đó là: không thể sống đời sống yêu nước một cách bình thường, mà cũng không thể sống đời sống kính Chúa một cách bình thường. Cái “bi kịch”, cái “không bình thường” đó là do Giáo hội Công giáo lúc này hay lúc khác đã không hòa nhập với nguyện vọng chân chính của đa số giáo dân. Việc phong 117 Chân Phước lên hàng Thánh (tổ chức tại Rôm ngày 19/06/1988) là một biểu hiện thiếu thiện ý đối với dân tộc Việt Nam, không được lòng đa số nhân dân Việt Nam (trong đó có đa số tín đồ Công giáo).
Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ: Công giáo chỉ thực sự sáng danh trong cộng đồng dân tộc khi thực sự hòa nhập vào dân tộc, vận động giáo dân “kính Chúa yêu nước”, “tốt đời đẹp đạo” tham gia hết mình vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chống lại mọi âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và thế lực phản động lợi dụng tôn giáo làm những điều sai trái, phương hại đến lợi ích và mục tiêu chân chính, đi ngược lại nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân nhân. Làm được như vậy cũng chính là thực hiện đúng lời răn dạy của Chúa là sống trong sạch để được bằng an, cứu rỗi...
Năm 1952, trên Báo Cứu quốc, số 2046, ngày 1 tháng 4 với bài “Tuyên truyền cộng sản?”, Người viết: ““Ai mong muốn Mỹ phát động một cuộc chiến tranh chống Nga cộng sản thì người ấy là người phạm tội ác to, chống lại lời thứ 5 của Đức Chúa: “Mi sẽ không giết người”.
“Nếu Pháp đã ký điều ước quân sự với Mỹ, và nếu Mỹ đã mở cuộc chiến tranh “phòng ngừa” chống Nga, thì thế nào? Trả lời thiết thực là: Hiệp ước ấy sẽ hoàn toàn không có giá trị. Chẳng những Pháp không buộc phải thi hành điều ước ấy, mà Pháp lại không có quyền hợp tác với Mỹ”.
Phải chăng đó là lời tuyên truyền của những người cộng sản Pháp?
 Thưa không phải. Đó là lời của Giám mục Ăng-xen đã đăng trên tờ báo hàng tuần của Công giáo tỉnh Lyông ở Pháp (12/1951).
Giám mục Ăng-xen còn nói rõ: chiến tranh xâm lược là tội ác, nhưng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thì cần, thì đúng.
Xem đó thì biết rằng: Những người Công giáo Việt Namtheo Pháp và bù nhìn, làm hại đồng bào, chẳng những là Việt gian, mà cũng là giáo gian. Còn những đồng bào Công giáo kháng chiến mới là tín đồ chân chính của Đức Chúa, vì những đồng bào ấy thật thà Phụng sự Đức Chúa, Phụng sự Tổ quốc.[1]
Với Hồ Chí Minh, điều mà Người quan tâm lớn nhất chính là phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân vì độc lập Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, do vậy Người cũng rất quan tâm đến đời sống của đồng bào Công giáo Việt Nam.
Từ 1945 đến 1956, không lễ Nôen nào mà Người không gửi thư chúc tết đồng bào Công giáo. Trong tất cả các thư ấy và các thư gửi cho giám mục Lê Hữu Từ, Linh mục Lê Văn Yên, Linh mục Thuyết, đồng bào Công giáo ở Quảng Bình, Hà Tĩnh, Vinh, Thái Bình, Vĩnh Yên v.v,. Người không quy Công giáo là Tôn giáo của chủ nghĩa thực dân. Người chỉ rõ chủ nghĩa thực dân đã lợi dụng Công giáo như thế nào và luôn kêu gọi đoàn kết Lương-Giáo, kính chúa, yêu nước vì độc lập của Tổ quốc cũng như vì sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam.
Ngày 14/10/1945 Người viết thư cảm ơn đồng bào  Công giáo Vinh - Hà Tĩnh - Quảng Bình vì họ đã gửi thư cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bày tỏ rằng: “Dù phải hy sinh xương máu để kiến thiết một nước nhà tự do hạnh phúc hoàn toàn, thì chúng tôi cũng sẵn sàng không ngần ngại”. Người khẳng định: “Câu nói nhiệt thành đó tỏ rằng các vị là những người chân chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính tín đồ của Đức Giêsu”[2].
Tháng 3 năm 1946, khi Chính phủ lập phái đoàn đi thăm nhân dân Nam Trung Bộ, biết khu vực này có nhiều đồng bào Công giáo, Người đã viết thư cho Giám mục Lê Hữu Từ: “Vì ở miền đó cũng có nhiều đồng bào Công giáo, nên tôi muốn nhờ cụ chọn cho một vị linh mục thân tín của cụ cùng đi với các đại biểu của Chính phủ vào thăm đồng bào ta”[3].
Người cũng đã rất cảm động khi nhận được món quà của Nhà Dục Anh Công giáo Thái Bình tặng. Món quà dù chỉ là một khung ảnh bằng lụa, nhưng Người đã viết thư cảm ơn, tỏ rõ sự trân trọng của Người đối với sự lao động của các bà  phước. Qua đó Người cũng khẳng định đồng bào Công giáo cũng rất yêu mến Người, và Người nhắc nhở mọi người phải giữ gìn truyền thống quý báu của dân tộc ta là không phân biệt Lương-Giáo luôn tương thân, tương ái, đoàn kết chặt chẽ vì quốc gia dân tộc. Người viết: “Các bà phước ngày đêm chăm nuôi các trẻ em đã rất khó nhọc, thế mà còn bớt thời giờ để thêu cái khung ảnh rất đẹp. Tôi thấy trong mỗi đường kim, trong mỗi mũi chỉ, đã thấm bao nhiêu cái tinh thần yêu mến giữa đồng bào Công giáo với tôi. Do đó chúng ta đã thấy rằng: Đồng bào ta không chia Lương-Giáo, ai cũng tương ái, tương thân, đoàn kết chặt chẽ thành một khối. Tôi cảm ơn và xin chúc toàn thể đồng bào Công giáo luôn luôn mạnh khỏe, để phụng sự Tổ quốc, phụng sự chúa trời[4].
Trong kháng chiến chống Pháp, Người nhắc nhở đồng bào ta “Lúc này, thực dân Pháp gây cuộc chiến tranh, chúng muốn cướp nước ta lần nữa. Chúng làm trái hẳn với lòng bác ái của Đức Chúa Giêsu”[5]. Vì vậy nhân dân ta phải đoàn kết, không phân biệt tôn giáo quyết một lòng cho kháng chiến thành công, cho non sông thống nhất: “Nước ta phải thống nhất Nam Bắc là một nhà. Không thể để ai chia cắt Tổ quốc ta, chia rẽ gia đình ta. Tôi mong đồng bào Công giáo ta sẽ hết lòng hết sức cùng toàn dân kiên quyết đấu tranh cho nước nhà thống nhất, giữ vững hòa bình. Tôi mong đồng bào Công giáo ta cũng như mọi người dân yêu nước ra sức góp phần xây dựng miền Bắc của ta vững mạnh, cố gắng thi đua sản xuất làm cho nước mạnh, dân giàu”[6].
Người không chỉ đoàn kết với giáo dân trong nước mà còn đoàn kết với cả giáo dân quốc tế vì nước Việt Nam hòa bình, độc lập, có chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Trong thư gửi cho giáo dân Pháp, Người viết: “Nhân dịp lễ Noel và năm mới tôi thân ái gửi các bạn lời chào, chúc hoà bình và thịnh vượng.
Chúng tôi biết rằng các bạn không tán thành cuộc chiến tranh phi nghĩa này và các bạn thiết tha mong đợi hoà bình.
Chúng tôi cũng muốn hoà bình.
Vậy chúng ta hãy hợp sức lại.
Các bạn hãy chiến đấu kỳ cho đạt được mục đích mà các bạn đã theo đuổi, đòi phải đình chỉ tức khắc cuộc chiến tranh và phải cho ngay các thanh niên Pháp về nước.
Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ mở cuộc tiến công để quét sạch bọn thực dân xâm lược khỏi đất nước chúng tôi”[7].
Người chia sẻ từng nỗi buồn với cái buồn của giáo dân, mừng cùng mỗi niềm vui của giáo dân. Năm 1948, Người đã gửi lời chia buồn đến đồng bào Công giáo địa phận Bùi Chu về việc giám mục Hồ Ngọc Cẩn qua đời. Năm 1965 Người cũng gửi điện chia buồn đến đồng bào Công giáo tỉnh Nam Hà vì sự thương tiếc Linh mục Lâm Quang Học thọ 108 tuổi vừa từ trần, và mong đồng bào Công giáo noi gương Cụ Lâm đoàn kết cùng toàn dân chống Mỹ cứu nước thắng lợi. Hàng năm nhân dịp Noen, Người thường gửi thư thăm hỏi chia vui cùng đồng bào Công giáo. Trong các thư Người thường khẳng định: “Pháp mạnh hơn ta nhưng ta thắng được là nhờ có đoàn kết Lương-Giáo; phải xứng đáng là những con chiên chân chính của Chúa nhân từ có đức hy sinh cao thượng; phải kính chúa - yêu nước”. Với nhi đồng Công giáo, Người dặn các cháu phải: “Biết giữ kỷ luật, siêng học, siêng làm, yêu chúa, yêu nước”[8].
Tóm lại: ở Hồ Chí Minh, Chúa là nhân từ, Chúa là tấm gương hy sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hòa bình, vì công lý. Tấm gương hy sinh cao cả của Chúa nhân từ vì sự cứu rỗi con người là sự ảnh hưởng lớn đối với Người. Với Người, đồng bào Công giáo Việt Nam dù ở đâu, làm gì cũng đều là giống nòi người Việt, là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Người xót thương với những giáo hữu Công giáo bị đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm lừa bịp, ép buộc thành nạn nhân của chính nó. Người đã viết thư an ủi và chỉ rõ: “Chính phủ Việt Namluôn tôn trọng tự do tín ngưỡng, Chính phủ luôn sẵn sàng hoan nghênh đón tiếp giúp đỡ nếu đồng bào trở lại quê hương”[9].Người cùng vui, cùng buồn với mọi niềm vui nỗi buồn của giáo dân. Người phân biệt rõ Công giáo với tư cách là tín ngưỡng của nhân dân với cái đã bị Chủ nghĩa thực dân lợi dụng thành mục đích của chính nó. Chính thế mà Người kêu gọi Lương-Giáo đoàn kết giúp đỡ cán bộ sửa chữa sai lầm trên tinh thần thân ái, đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng[10]. Tất cả đều vì mục đích độc lập thống nhất dân tộc và vì hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết Lương-Giáo bao gồm cả đoàn kết giữa những người có tôn giáo khác nhau, vì Người luôn kính trọng nhân dân, luôn trân trọng sinh mệnh của con người. Người khoan dung, độ lượng và luôn thấu hiểu, yêu thiết tha những người nô lệ, những người mất nước.




[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 2000, tập 6, trang 443.
[2] Xem Sđd, Tập 4, Trang 50.
[3] Xem Sđd, Tập 4, Trang 211.
[4] Xem Sđd, Tập 6, Trang 224-225.
[5] Xem Sđd, Tập 4, Trang 490; Tập 5, Trang 276; Tập 7, Trang 197.
[6] Xem Sđd, Tập 8, Trang 99-100; Tập 11, Trang 314.
[7] Xem Sđd, Tập 5, Trang 274.
[8] Xem Sđd, Tập 5, Trang 125.
[9] Xem Sđd, Tập 7, Trang 416; Tập 8, Trang 99.
[10] Xem Sđd, Tập 8, Trang 285; Tập 11, Trang 314.