Tìm Kiếm

Quan điểm chung của Hồ Chí Minh về tôn giáo

QUAN ĐIỂM CHUNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO


1.1. Khái lược về đời sống tâm linh người Việt Nam.
Việt Nam là quốc gia dân tộc đa sắc tộc và đa thần. Đối tượng được suy tôn là thần, thánh, mẫu,.. gọi chung là bách thần (trên toàn quốc có đến trên 100 danh vị thần), có tính chất, đặc điểm và xuất xứ khác nhau:
- Chính thần: Là những thần (Nam - Nữ) có công với làng, nước (lập làng truyền nghề cho dân, Âm phù trong các cuộc chiến tranh giữ nước).
- Tà thần: Trộm cướp, bất lương bị dân đánh chết, gặp giỗ thiêng dân làng phải thờ.
- Tạp thần: Người buôn bán, trẻ em, hành khất đi qua làng gặp nạn chết làng thờ.
- Nhiên thần: Những thần trong vũ trụ tự nhiên được dân quan niệm có tồn tại: Gió, mưa, sấm, chớp, núi, sông, rừng, biển, thần cây, thần đá, thần thời gian...
- Nhân thần: (Nam - Nữ): Là người thực có công với đất nước như đánh đuổi ngoại xâm (thần lịch sử), dạy nghề sinh sống (thần văn hóa).
- Phúc thần: thần ban phúc cho dân làng (thần ăn mày).
- Thành Hoàng: Thần Bản mệnh của làng, giữ gìn bảo vệ sinh mệnh của cả làng. Thành Hoàng làng mỗi làng chỉ có một vị.
Cách thờ cúng cũng có nhiều loại:
- Thờ tổ có thờ cúng Gia tiên: Dòng họ, gia tộc (huyết thống); Thờ cúng Làng: Thành hoàng; Thờ cúng Nước: Vua Hùng.
- Thờ thần linh có Thờ thần linh trong gia đình: Bàn thờ gia tiên; Thổ công, thổ địa, thổ kỳ; Thần tài; Thờ thần linh ngoài xã hội: Thần nghề nghiệp như Thần nông, thời tiết (Vân, vũ, lôi, điện),  phồn thực, thần dạy nghề (thánh sư, tổ sư); Nữ thần (thờ mẫu): Tam tòa thánh mẫu, tứ phủ công đồng, các nữ thần khác;  Tứ bất tử: Thánh mẫu Liễu Hạnh, Thần Tản  Viên, Thánh Phù Đổng, Thần Chử Đồng Tử.
Cấp bậc của thần (do triều đình sắc phong): Thượng thần, Trung thần, Hạ thần.
Nơi thờ thần rất phong phú: Nơi thờ nhân tạo có Đình, Đền, Miếu, Phủ, Am, Điện, Bàn thiên, chùa (Tiền Phật, hậu thần)...; Nơi thờ thiên tạo có Gò, đồng, bến nước, bìa rừng, hốc núi, tảng đá,  gốc cây, lề đường...
Mục đích thờ thần chủ yếu là: Cầu bình yên: Nhân khang vật thịnh - Quốc thái dân an; Đền ơn trả nghĩa thần; Tâm lý nếp sống: có đạo lý, trung hậu, uống nước nhớ nguồn.
Khi tiếp cận với đời sống tâm linh người Việt, cần phải phân biệt được mê tín dị đoan với tín ngưỡng truyền thống:
 + Mê tín: Cần hiểu theo các nghĩa 1) Tin một cách mù quáng vào cái thần bí, vào những chuyện thần thánh, ma quỷ, số mệnh ... (Nặng đầu óc mê tín, bài trừ mê tín), 2) Ưa chuộng, tin tưởng một cách mù quáng, không biết suy xét (mê tín hàng ngoại, thuốc tây ngoại, vải ngoại v.v.)
+ Dị đoan: Cần hiểu theo các nghĩa 1) Điều quái lạ, huyền hoặc do tin nhảm nhí mà có (Bài trừ mê tín dị đoan), 2) Tin vào dị đoan : Người dị đoan tin có ma, có số.
+ Hủ tục: Phong tục đã lỗi thời.
+ Hủ lậu: Cũ kỹ, quá lạc hậu, lỗi thời (phong tục hủ lậu, đầu óc hủ lậu).
+ Tín ngưỡng: Cần hiểu theo các nghĩa 1- Theo một tôn giáo nào đó (tôn trọng tự do tín ngưỡng). 2- Tín ngưỡng dân gian truyền thống (Thờ cúng gia tiên).
+ Tôn giáo: Cần hiểu theo các nghĩa 1) Là một hình thái ý thức xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thờ; 2) Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng đối với một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy. 3) Là một hoạt động tinh thần bao gồm ba yếu tố không tách rời nhau: Niềm tin (tín ngưỡng), Hành vi (nghi thức), Nội dung (giáo lý).
Trên cơ sở phân biệt ấy, thì Việt Nam cho đến trước 1930 chỉ có các tôn giáo sau: Phật giáo, Nho giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo truyền từ nước ngoài vào, Cao Đài, Hòa Hảo là tôn giáo nội sinh. Các giáo phái khác chỉ là sự biến tướng của các tôn giáo này, còn lại đều là các tín ngưỡng dân gian hoặc mê tín mà thôi.
Nhìn chung, đến trước 1930, ở Việt Nam, chủ nghĩa duy tâm kết hợp với tôn giáo là thế giới quan bao trùm. Chủ nghĩa duy vật và quan niệm vô thần chỉ xuất hiện trên từng vấn đề, từng điểm cụ thể. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và quan niệm vô thần chống chủ nghĩa duy tâm và quan niệm hữu thần chỉ là sự đấu tranh giữa các yếu tố chống lại hệ thống, cái kinh nghiệm chỉ mới được khảo sát chống lại cái lý luận có bề thế.
Chủ nghĩa duy tâm hữu thần ở Việt Namcó nguồn gốc từ tam giáo và tín ngưỡng dân gian cổ truyền:
Các yếu tố duy tâm hữu thần trong Nho giáo thể hiện ở sự thừa nhận mệnh trời: Họ tuyệt đối vai trò của trời là một đấng siêu nhiên. Mọi hoạt động của con người đều bị quyết định bởi thiên mệnh và ý trời. Vua (thiên tử) là con trời có toàn quyền với thiên hạ, xã hội; dân (thần dần) chỉ là tài sản trời ban cho vua, vua đến để nhận dân, hưởng dân và trị dân. Con người phải tuân thủ các danh phận trời ban: Quân tử-Tiểu nhân, Lao tâm-Lao lực, Thánh nhân-Trung nhân-Hạ ngu. Họ cũng cho rằng trong con người có hai phần thiên lý (đạo đức phong kiến) và nhân dục (nhu cầu của con người). Nếu thiên lý thắng thì xã hội trị, nếu nhân dục thắng thì xã hội loạn. Muốn xã hội trị phải tiết dục (hạn chế lòng mong muốn), tri túc... Như vậy, họ đã coi tư tưởng của con người là động lực phát triển của xã hội, họ chủ trương khổ hạnh và ngu dân, không thấy nhu cầu là một trong các động lực phát triển của xã hội.
Các yếu tố duy tâm trong Phật giáo thể hiện ở chỗ thừa nhận Nghiệp, Kiếp theo nhân quả, luân hồi, mà thể hiện rõ nhất, tập trung nhất là trong những quan niệm của Phật giáo về thế giới quan. Theo Phật giáo, vạn pháp (sự vật, hiện tượng) đều nhờ duyên. Sự hội tụ khác nhau của các yếu tố vật chất và ý thức tạo ra sự phong phú, đa dạng của vạn vật. Duyên hội sự vật sinh, duyên tan sự vật mất. Vạn pháp là vô thường. Không có gì là thường hằng, thường trụ cả, mà tất cả đều biến đổi. Sự biến đổi của vạn pháp là vô thủy, vô chung, vô cùng, vô tận. Chỉ trong một shatna nó là nó mà cũng không là nó. Tất cả chỉ là sắc sắc không không. Không có gì là thật tướng cả, mà chỉ là ảo và giả mà thôi. Con người cũng chỉ là pháp đặc biệt trong vạn pháp. Không có linh hồn bất tử, linh hồn phải gắn liền với thể xác, thể xác mất linh hồn cũng mất, chỉ tàng thức mới là cái vĩnh hằng.
Các yếu tố duy tâm hữu thần trong Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo thể hiện ở sự phụ thuộc tuyệt đối của con người nơi Chúa, Đức Giê Hô Va, Thượng Đế và các thánh thần. Theo các tôn giáo này, Chúa là đấng sáng tạo thế giới và vạn vật. Con người được Chúa tạo ra ở ngày thứ sáu - ngày cuối cùng trong toàn bộ quá trình sáng tạo vũ trụ của Chúa. Chúa đã ban tặng ý thức cho con người một cách dần dần. Chúa cho con người quyền cai quản muôn loài và vũ trụ nhưng phải vâng phục Chúa. Quyền uy, quyền hạn, quyền lực mà con người có được là do Chúa ban tặng.
Chủ nghĩa duy vật và quan niệm vô thần ở Việt Nam tuy không đánh đổ tận gốc chủ nghĩa duy tâm và quan niệm hữu thần, chưa đạt trình độ sâu sắc toàn diện, nhưng cũng đã đối địch trên từng luận điểm cụ thể. Chẳng hạn để chống lại sự trang nghiêm của định mệnh, các nhà tư tưởng Việt Nam đã từng quan niệm “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, “lẽ trời là lòng dân”, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”.
Các tôn giáo thế giới khi truyền đến Việt Namđều đã chịu ảnh hưởng của văn hoá tâm linh nói riêng, văn hoá nói chung của người Việt mà thế tục, hoà nhập cùng tồn tại, tạo nên nét riêng cho mình và làm phong phú thêm đời sống văn hoá người Việt.
Lập trường duy vật vô thần, duy tâm hữu thần ở Việt Nam đều thể hiện trong giải quyết mối quan hệ giữa tâm và vật, linh hồn với thể xác, lý với khí, giải thích nguyên nhân nguồn gốc tạo nên những sự kiện cơ bản của đất nước, con người: An nguy quốc gia, trị loạn xã hội, hưng vong của các triều đại, vấn đề số mệnh của bản tính con người... là điểm nổi trội trong đời sống tâm linh người Việt.
1.2. Các quan điểm chung của Hồ Chí Minh về tôn giáo.
Hồ Chí Minh luôn đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng nó một cách sáng tạo, linh hoạt phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Người luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân không chỉ trong tư tưởng mà cả trong hành động cụ thể. Ở Người, tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo là một sự tôn trọng có cơ sở lý luận, khoa học và cách mạng. Đồng thời là một yếu tố quan trọng trong đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Người.
Ngay sau ngày tuyên bố “Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, ngày 3/9/1945, khi quy định về việc tiếp chuyện đại biểu các đoàn thể, Người viết: “Từ năm nay tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các đoàn thể như: các báo Việt và Tàu.., Công giáo, Phật giáo.., Công hội, Nông hội v.v. Xin chú ý:
1. Gửi thư nói trước để tôi sắp xếp thì giờ, rồi trả lời cho bà con, như vậy thì khỏi phải chờ đợi mất công.
2. Mỗi đoàn đại biểu xin chớ quá 10 vị.
3. Mỗi lần tiếp chuyện xin chớ quá một tiếng đồng hồ”[1].
Khi vạch ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thì một trong sáu nhiệm vụ cấp bách ấy do Người vạch ra ngày 3/9/1945 là: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: “TÍN NGƯỠNG TỰ DO VÀ LƯƠNG GIÁO ĐOÀN KẾT[2]. Sau này trong “Thư gửi Hội Phật tử ngày 30/8/1947” và trong “Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam 3/3/1951”[3]và nhiều bài nói bài viết khác, Người cũng thường khẳng định lại lập trường đó.
Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đại đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng và những người không có tín ngưỡng, giữa những người có tín ngưỡng khác nhau, tất cả đều vì mục tiêu độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự phát triển và hoàn  thiện của mỗi cá nhân con người Việt Nam và vì sự phát triển của dân tộc.
Trong “Thư gửi các vị Linh mục và đồng bào Công giáo Việt Nam ngày 25/12/1945” Người viết: “Hiện nay toàn quốc đồng bào ta Công giáo và ngoại Công giáo đều đoàn kết chặt chẽ, nhất trí đồng tâm như con một nhà, ra sức đấu tranh để gìn giữ nền độc lập của Tổ quốc. Ngoài sa trường thì xương máu của các chiến sĩ Công giáo và ngoại Công giáo đã xây nên một bức thành kiên cố vĩ đại để ngăn cản kẻ thù chung là bọn thực dân Tây. Ở khắp nơi trong nước, đồng bào Công giáo và ngoại Công giáo đang cả lực lượng giúp vào cuộc kháng chiến và kiến quốc. Tinh thần hy sinh phấn đấu ấy tức noi theo tinh thần cao thượng của Đức Chúa Giêsu”[4].
Trong "LỜI KÊU GỌI ĐỒNG BÀO CAO ĐÀI, HOÀ HẢO" ngày 3 tháng 5 năm 1948, Người viết: "Hai phái Cao Đài do cụ Cao Triều Phát lãnh đạo luôn luôn cùng đồng bào toàn quốc hăng hái kháng chiến. Tổ quốc và Chính phủ sẽ nhớ công những người con trung thành.
Gần đây một số lớn đồng bào Hoà Hảo đã quay súng chống địch và trở về với Tổ quốc yêu mến.
          Chính phủ hoan nghênh những anh em đã tỉnh ngộ.
          Tôi đã thường nói: Trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước. Tuy có một số đồng bào lầm lạc, qua một thời gian, những người ấy dần dần giác ngộ và quay về với Tổ quốc.
          Nay đồng bào Hoà Hảo Sa Đéc đã xung phong bỏ quân giặc cướp nước mà về với Tổ quốc thân yêu.
          Chính phủ và toàn quốc đông bào đang chờ đợi để hoan nghênh những người hiện đang lầm đường theo giặc noi gương ái quốc của anh em Hoà Hảo đó.
          Toàn dân đoàn kết muôn năm.
          Trường ký kháng chiến nhất định thắng lợi"[5].
Trong “Bài nói tại buổi khai mạc Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt” tháng 3 năm 1951, Người nói: “Trong Đại hội này, chúng ta có đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, già có, trẻ có, nam có, nữ có, thật là một gia đình tương thân tương ái. Chắc rằng sau cuộc Đại hội, mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân. Với lực lượng đoàn kết ấy, chúng ta sẽ vượt qua hết thảy mọi khó khăn, gian khổ, chúng ta sẽ đánh tan tất thảy mọi kẻ thù đế quốc thực dân.”[6]
Năm 1952, trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II, khi đề cập đến Tôn giáo, Người viết: “Phần lớn đồng bào tôn giáo, nhất là các tầng lớp lao động đều yêu nước kháng chiến, như Công giáo ở nhiều nơi, như Cao Đài kháng chiến, v.v.. Một phần thì bị địch lợi dụng như ngụy quân Cao Đài, Hòa Hảo, Công giáo ở Nam Bộ. Một số đồng bào Công giáo tuy bản thì tốt, nhưng bị bọn cầm đầu phản động lung lạc, nên họ hoài nghi chính sách của Đảng và Chính phủ.
Đó là vì, địch dùng chính sách chia rẽ, song một phần cũng vì ta chưa có phương pháp thích hợp để vận động đồng bào tôn giáo. Đồng thời vì cán bộ ta kém, có nơi đã có những hành động lố lăng, phạm đến tín ngưỡng và quyền lợi của đồng bào tôn giáo.
Nói tóm lại, tối đại đa số nhân dân ta là tốt, yêu nước, căm thù giặc, ủng hộ kháng chiến. Nhưng vẫn còn một số vì họ đặt lợi ích cá nhân, lợi ích giai cấp của họ lên trên lợi ích dân tộc, hoặc vì họ bị địch lừa phỉnh, mua chuộc mà có thái độ lưng chừng, hoặc ngoan cố, thậm chí phản động.
Càng ngày địch càng dùng thủ đoạn quỷ quyệt và thâm độc hơn chia rẽ nhân dân ta, hòng phá khối đoàn kết toàn dân của ta.
Chúng ta phải thi hành đúng chính sách của Đảng và Chính phủ đối với các giai cấp, tầng lớp, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo, để mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất, phá âm mưu của địch: dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.”[7]
Trong "THƯ GỬI HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC" ngày 21 tháng 6 năm 1956, Người viết: "Tôi trân trọng cảm ơn bức điện Cụ gửi cho tôi ngày 26-4-1956 và thành thật hoan nghênh Cụ đã tỏ ý mong muốn nước Việt Namta được hoà bình, thống nhất. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, toàn dân ta từ Bắc chí Nam, trong nước và ngoài nước đều đang kiên quyết và bền bỉ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của dân tộc. Là làm cho nước Việt Nam ta được hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Cuộc đấu tranh hiện nay của nhân dân ta tuy phải khó khăn và phức tạp, song toàn dân ta đoàn kết một lòng, kiên quyết phấn đấu, cho nên nhất định sẽ thắng lợi"[8].
Người quan niệm “Tổ quốc độc lập Tôn giáo mới tự do”[9]. Người luôn kêu gọi “Toàn thể đồng bào ta, không chia Lương Giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn non sông, Tổ quốc mà cũng để giữ gìn quyền Tôn giáo tự do”[10]. Người cũng đã viết: “Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng, để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải nô lệ.
Trong cuộc kháng chiến cứu nước, đồng bào Phật giáo đã làm được nhiều. Tôi cảm ơn đồng bào và mong đồng bào cố gắng thêm, cố gắng mãi cho đến ngày trường kỳ kháng chiến thắng lợi, thống nhất độc lập thành công”[11].
Người vẫn thường nhắc nhở “Trong Hiến pháp ta đã định rõ tín ngưỡng tự do. Nếu ai làm sai Hiến pháp, khiêu khích Công giáo thì sẽ bị phạt... Việt Nam độc lập đồng minh là cốt để để đoàn kết tất cả đồng bào để làm cho Tổ quốc độc lập chứ không phải để chia rẽ, phản đối tôn giáo”[12]. Trong lời kết thúc buổi lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, ngày 3-3-1951, Người tuyên bố: "Về vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người"[13].
Trong sắc lệnh số 5 ký ngày 23/11/1945 ở điều 4, Người cấm phá huỷ đình, chùa, đền, miếu, hoặc những nơi thờ tự khác: cung điện, thành quách, lăng mộ chưa được bảo tồn. Trong sắc lệnh số 234 ký ngày 14/6/1945 Người nêu rõ:
1) Chính phủ đã bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo (nhà thờ, chùa, tịnh thất, trường giáo lý...);
 2) Các nhà tu hành và tín đồ đều được hưởng mọi quyền lợi của công dân và phải làm tròn nghĩa vụ của công dân.
Người đã từng trả lời câu hỏi “Người là ai?” của các nhà báo trong và ngoài nước rằng “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, Ki tô giáo có ưu điểm là lòng bác ái. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm chính là chính sách của nó phù hợp với những điều kiện của nước ta. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng... Tôi cố gắng làm một  học trò nhỏ của các vị ấy”[14], thì cũng chính là trên tinh thần của đại đoàn kết vì nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực và thế giới; Là vì Người đề cao vai trò của con người trong chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, khẳng định vai trò quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng là người quyết định và sáng tạo ra lịch sử; Là để đáp ứng hoài bão của Người mang lại cho nhân dân cho con người một cuộc sống luôn tốt đẹp hơn. Quan điểm trên của Người, chứng tỏ Hồ Chí Minh đã coi những giá trị nhân văn, nhân đạo của các tôn giáo là những di sản văn hóa tinh thần quý báu của nhân dân. Người tìm thấy trong các tôn giáo có nhiều điều tương đồng, phù hợp với mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó của Người nhắc nhở mỗi chúng ta phải có thái độ khách quan, khoa học nhằm tìm ra những giá trị nhân văn, nhân đạo trong mỗi tôn giáo để kế thừa, phát huy vì sự phát triển của đất nước. Chính thế, trong đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Người, đoàn kết các tôn giáo là vấn đề rất quan trọng, mà ngày nay còn nguyên giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Người tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, nhưng Người luôn phân biệt rõ tín ngưỡng chân chính với những kẻ lợi dụng tín ngưỡng của nhân dân để xâm lược nước khác và mê hoặc nhân dân để dễ bề cai trị. Hồ Chí Minh rất căm thù những kẻ theo chủ nghĩa Giáo hội. Với Người, những kẻ theo chủ nghĩa giáo hội là những kẻ ích kỷ, tham lam, vơ vét của tín đồ và nhân dân. Thậm chí Người coi bọn họ là những tên gián điệp.
Trong các bài phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản, trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”... Người đã tố cáo Giáo hội Công giáo chiếm đoạt ruộng đất của nhân dân, bóc lột tàn tệ, đàn áp và mê hoặc nhân dân. Người thừa nhận ưu điểm của Công giáo là lòng nhân ái cao cả, thì Người cũng phê phán mãnh liệt chủ nghĩa thực dân dùng Giáo hội làm một công cụ phục vụ cho mục đích thực dân.
Người đã dẫn chứng, sau những cuộc hành quân đánh chiếm, giám mục có thể bỏ túi mình hàng trăm ngàn Ph.răng. Cha xứ cũng nhốt, trói, đánh đập trẻ em. Cha xứ bán cả bé gái Việt Namcho người châu Âu để kiếm tiền. Giáo hội chiếm rất nhiều ruộng đất canh tác của nhân dân. Linh mục sẵn sàng bảo lính đốt làng này vì không nộp thuế cho “chúng ta”, tha cho làng kia vì đã quy thuận “chúng ta”[15]v.v.
Người thẳng thừng vạch mặt thực dân Pháp lợi dụng Công giáo vào mục đích thực dân, chia rẽ đoàn kết Giáo-Lương ở Việt Nam, Người khẳng định “Thiên chúa đã cho loài người quyền tự do và dạy loài người lòng bác ái”[16], nên vì thế mà phải nêu cao cảnh giác với kẻ thù, không được nhầm lẫn bởi dã tâm của thực dân mà hãy đoàn kết vì dân tộc độc lập[17]. Trong quan niệm của Người, các vị sáng lập ra các tôn giáo đều là các vĩ nhân, nêu các tấm gương sáng về nhân văn, nhân đạo cho hậu thế muôn đời. Người đã viết và ca ngợi "Đức Thiên Chúa là tấm gương hy sinh triệt để vì những người bị áp bức, vì những dân tộc bị đè nén, vì hòa bình, vì công lý". Người cũng đã viết và ca ngợi "Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma".
Nói chung quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về Tôn giáo thể hiện ở những điểm sau:
1) Người kịch liệt phê phán chủ nghĩa giáo hội bị lợi dụng bởi mục đích thực dân, nhưng luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Người kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan, bài trừ những hủ tục làm cản trở sự vận động và phát triển của xã hội Việt Nam.
2) Sự tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân trong các bài nói và viết của Người về Tôn giáo là: Mỗi công dân có quyền theo hoặc không theo bất kỳ một Tôn giáo nào. Người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng đều bình đẳng như nhau trước pháp luật. Mỗi tín đồ tôn giáo cả trên cương vị tổ chức và cá nhân vừa làm tròn bổn phận của tín đồ, vừa làm tròn nghĩa vụ của một công dân. Mọi Tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi công dân đều có quyền thay đổi hoặc không thay đổi tôn giáo của mình mà không cần một điều kiện xã hội nào kèm theo.
3) Mọi người Việt Nam không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng phải thực sự đoàn kết cùng nhau phấn đấu vì Việt Namhòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh tiến  lên CNXH.
Những  tư tưởng cơ bản đó đã định hướng cho việc quy định chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước CHXHCN Việt Nam từ 1945 đến nay. Nó được thể hiện ở điều 10 trong Hiến pháp 1946; điều 26 trong Hiến pháp 1959; điều 57 và 68 trong sửa đổi Hiến pháp 1980; điều 54 và 70 trong Hiến pháp 1992; trong nghị định 69 của HĐBT ký ngày 21/3/1991 quy định về các hoạt động của tôn giáo và trong Nghị định 26/1999/NĐ-CP của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo ký ngày 19 tháng 4 năm 1999; Trong Nghị quyết số 25-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IX về công tác tôn giáo, ngày 12 tháng 3 năm 2003; Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của UBTVQH nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 21/2004/PL-UBTVQH11, Nghị định của Chính phủ số 22/2005/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo.



[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG , Hà Nội 2000, Tập 4, Trang 10.
[2] Sđd, Tập 4, Trang 9.
[3] Sđd, Tập 5, Trang 197.
[4] Sđd, Tập 4, Trang 121.
[5] Sđd, Tập 5 -Trang 422.
[6] Sđd, Tập 6, trang 183.
[7]Sđd, Tp 6, trang 461.
[8] Sđd-Tập 8-Trang  193.
[9] Sđd, Tập 6, Trang 342.
[10] Xem Sđd, Tập 4, Trang 197, 490; Tập 5 Trang 726; Tập 7 trang 197.
[11] Xem Sđd, Tập 5, Trang 197; Tập 8, Trang 290-291.
[12] Xem Sđd, Tập 5, Trang 28.
[13] Sđd, Tập 6, trang 184.
[14] Xem  Về Tôn giáo, Nxb KHXH, Hà Nội 1994, Tập 1, Trang 6-7; Nho giáo xưa và nay, Nxb KHXH, Hà Nội 1971, Trang 16.
[15] Xem  Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 1, Trang 284-285, 417; Tập 2, Trang 101.
[16] Xem Sđd, Tập 5, Trang 333.
[17] Xem Sđd, Tập 5, Trang 701.