Hồ Chí Minh với Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ cuối thế kỷ VI trước Công nguyên và là một trong các Tôn giáo lớn của thế giới (Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo). Phật giáo truyền đến Việt Nam từ thế kỷ thứ I và tồn tại đến ngày nay.
Ngay từ thời sơ khai, Phật giáo đã được người Việt tiếp nhận một cách tự nhiên, bởi triết lý và đạo đức Phật giáo có nhiều yếu tố phù hợp với văn hoá và đạo đức người Việt.
Thời Lý - Trần, Phật giáo ở Việt Nam đã trở thành như quốc giáo, đã xuất hiện nhiều vị sư giỏi có công lớn trong giữ nước và trị nước: Quốc sư Vạn Hạnh, Quốc sư Khuông Việt, Thiền sư Pháp Thuận, cư sỹ Tuệ Trung Thượng Sỹ...
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Phật giáo thăng trầm khác nhau nhưng nói chung có đóng góp không nhỏ trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, đặc biệt là các thời kỳ: Lý-Trần, Trịnh-Nguyễn, Phong trào Phật giáo vì Phật pháp và vì hòa bình, hòa hợp dân tộc giai đoạn 1963-1975...
Thế giới quan Phật giáo là duy tâm. Nhưng nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam xây dựng trên thế giới quan ấy luôn chứa đựng những nét nhân bản, nhân văn cao cả. Phật giáo Việt Nam là sự chắt lọc, hoà quyện từ Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và văn hoá Việt Nam . Trong gần 2000 năm phát triển Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, là thành tố quan trọng chung dựng nên nền văn hoá Việt Nam. Ngày nay trong nội bộ Phật giáo Việt Nam tuy có những đối trọng, nhưng cơ bản lối sống của Phật tử Việt Nam vẫn là vô ngã vị tha, lợi lạc quần sinh, từ bi, hỷ xả có tinh thần trách nhiệm với quốc gia, với đạo pháp.
Trên thực tế có rất nhiều những đánh giá khác nhau về giá trị tư tưởng của triết học-tôn giáo Phật giáo. Ăng Ghen đã từng cho rằng, những tư tưởng về “vô ngã”, “vô thường” của Đạo Phật chứa đựng tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Về nhân sinh quan, có người cho rằng Phật giáo là bi quan, yếm thế về cuộc sống con người, không đề ra nỗi khổ của áp bức giai cấp, không đề ra biện pháp cách mạng để cải tạo xã hội mà đi sâu vào con đường giải thoát mang tính cá nhân tiêu cực. Cũng có ý kiến cho rằng Đạo Phật đã đề cập đến sự thật nơi cuộc sống của mỗi con người, bất kể đó là ai đều không thoát khỏi sự ràng buộc của sinh-lão-bệnh-tử và luân hồi. Đạo Phật đã đề ra và định hướng giải quyết một vấn đề mà bất cứ ai dù ít, dù nhiều đều không thể lãng tránh.
Thật ra, Đạo Phật đã đặt ra và giải quyết một vấn đề rất có liên quan tới mỗi con người. Ở đây cần phải đứng trên quan điểm: Đạo Phật đã phản ánh nhu cầu nào của con người và có ý định giải quyết những vấn đề đó có cần thiết đặt ra cho con người hay không? Ở quan điểm này, đạo Phật đã có những suy tư hết sức sâu sắc. Đó là giá trị về mặt tư duy và về mặt tư tưởng triết học của Đạo Phật. Tuy vậy, trong những giá trị nhân bản của Đạo Phật cũng hàm chứa những hạn chế nhất định của nó: chỉ chú trọng giải quyết nhân bản ở góc độ là tính nhân bản nhân loại, mà thiếu mất góc độ của những giới hạn nhân bản về tính giai cấp, tính dân tộc v.v, nên triết học nhân bản Phật giáo vì thế mới ở mức độ nhân bản trừu tượng về con người.Phật giáo là một tôn giáo, có mặt tiêu cực là duy tâm, tuyệt đối hóa sự vận động của thế giới mà không thấy tính đứng im tương đối của vạn vật, nên chỉ thấy một thế giới huyễn, ảo, giả tồn tại. Nhưng Phật giáo cũng có những mặt tích cực đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động và cách ứng xử của người Việt. Đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp; đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”; Phật giáo Việt Nam, thiền phái Trúc Lâm chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc. Ngày nay, trong Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã xác định, “Phật giáo không đặt thành một nguyên vị cá biệt, mà đặt sự tồn tại của mình trong lòng sự tồn tại của dân tộc”. Đó là những điều để lại dấu ấn sâu sắc trong gia đình Hồ Chí Minh và bản thân Người.
Điều mà Hồ Chí Minh quan tâm lớn nhất đối với Phật giáo Việt Nam là đại đoàn kết dân tộc vì một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh. Trong thư gửi Hội Phật tử 1947, Người viết: “Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng chiến đến cùng để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ gìn thống nhất và độc lập Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi khổ ải nô lệ”[1].
Trong thư gửi cho đồng bào theo đạo Phật nhân lễ Phật thành đạo năm 1957, Người khẳng định tôn chỉ của Đạo Phật là nhằm xây dựng một cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm. Người cũng chỉ rõ những khó khăn của đất nước sau giải phóng với những sai lầm trong cải cách ruộng đất là một thực tế. Người khen ngợi về những đóng góp của đồng bào theo đạo Phật cho cuộc kháng chiến, đồng thời Người kêu gọi tăng, ni, Phật tín đồ đoàn kết góp phần xây dựng hoà bình, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng. Ngăn chặn âm mưu của bọn Mỹ - Diệm và bọn tay sai ra sức lợi dụng Tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp đấu tranh cho thống nhất nước nhà. Người viết: “Tôi có lời khen ngợi các vị tăng ni và tín đồ đã sẵn lòng nồng nàn yêu nước, hăng hái làm tròn nghĩa vụ của người công dân và xứng đáng là Phật tử... Trong cải cách ruộng đất, tuy có nơi đã phạm sai lầm trong việc thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng. Nhưng Đảng và Chính phủ đã có chính sách kiên quyết sửa chữa. Hiện nay,.. đời sống nhân dân ta dần dần càng được cải thiện, cũng giống như tôn chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui no ấm... Tôi mong các vị tăng ni và đồng bào tín đồ đã đoàn kết thì càng đoàn kết hơn để góp phần xây dựng hoà bình chóng thắng lợi. Hãy ra sức giúp đỡ cán bộ, hăng hái thực hiện mọi công tác của Chính phủ, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, ngăn chặn âm mưu của Mỹ - Diệm và bọn tay sai lợi dụng tôn giáo hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, hãy ra sức đấu tranh giành thống nhất đất nước[2].
Trong thư gửi Hội nghị đại biểu Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam năm 1964, Người khẳng định Phật giáo đã có công trong kháng chiến chống Pháp, ngày nay đang cùng cả nước xây dựng miền Bắc giàu mạnh, đấu tranh yêu nước chống Mỹ xâm lăng tiến tới thống nhất nước nhà. Người kêu gọi Phật giáo cả nước đoàn kết, cùng toàn dân tộc, theo tinh thần của Phật mà góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam: “Chúng ta tỏ lòng đoàn kết với đồng bào Phật giáo ở miền Nam đang hăng hái tham gia cuộc đấu tranh yêu nước và chống đế quốc Mỹ xâm lăng. Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam , đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là “lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” (cần hiểu là đem lợi ích và vui sướng cho mọi người, quên mình vì người khác). Chúc toàn thể tăng ni và đồng bào Phật giáo góp phần xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[3].
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại với sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã, đầy rẫy bất công, Đức Phật đã từ bỏ cuộc sống đầy đủ tiện nghi trong nhung lụa của cung đình, một mình quyết chí tu hành để tìm chân lý diệt trừ đau khổ cho chúng sinh.
Trong xã hội hiện đại của phương Đông cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cũng đầy rẫy bất công của sự áp bức, bóc lột tàn tệ bởi Chủ nghĩa thực dân gây nên, Hồ Chí Minh đã với đôi bàn tay trắng bôn ba khắp bốn biển năm châu, “Nâng niu tất cả chỉ quên mình” đem tự do, bình đẳng, bác ái về cho nhân dân, cho Tổ quốc.
Có phải vậy mà cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của hai vĩ nhân Siddharta Buddaha và Hồ Chí Minh đã có những nét tương đồng. Điểm khác nhau giữa họ là con đường, phương pháp, biện pháp làm cách mạng. Đức Phật hướng hạnh phúc của con người đến sự giải thoát. Hồ Chí Minh hướng hạnh phúc của con người đến cuộc sống đấu tranh và lao động thực sự của họ ở thế giới hiện thực.
Hồ Chí Minh viết về Phật giáo không nhiều, nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Người rất gắn bó với đạo Phật và để lại rất nhiều ấn tượng đẹp trong lòng Phật tín đồ cả nước và trên thế giới. Trong gia đình Người, bà Ngoại và Bố của Người là những người mến mộ đạo Phật. Thủa ấu thơ, Hồ Chí Minh được bà ngoại ru ngủ bằng những bài kinh Phật. Những năm 20 của thế kỷ XX, cụ Nguyễn Sinh Sắc là một trong những người có công đầu tiên trong công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Quê hương Nam Đàn (Nghệ An) và Huế (Thừa Thiên - Huế) của Người vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là những chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam . Những năm tháng hoạt động ở Thái Lan, Người đã từng cậy nhờ cửa chùa mà làm cách mạng. Khi đã là lãnh tụ cao nhất của Việt Nam , sang thăm Ấn Độ người đã đến nói chuyện với các nhà sư Ấn Độ và được các sư gọi Người là vị Phật sống cứu khổ cứu nạn chúng sinh.
Hồ Chí Minh đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hoá những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại chống làm điều ác. Người nắm vững triết lý Phật giáo và đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng cùng Đảng và Chính phủ đấu tranh giữ gìn và xây dựng đất nước.
Nếu Đức Phật là một truyền thuyết đi ra với đời, thì Hồ Chí Minh không chỉ là một vị Chủ Tịch nước, mà là một con người đã làm cho nhân dân và đất nước lớn lên cùng Người. Người là hiện thân sinh động của lòng yêu nước, yêu nhân loại, một hiền triết và là một chiến sĩ suốt đời đấu tranh cho tự do - bình đẳng - bác ái. Người là vị “Phật sống” đã phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc, cứu nhân độ thế, vị tha, hướng thiện... của Phật giáo Việt Nam vì mục đích dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.