Tìm Kiếm

Bài viết số 7 lớp 9 đề 5: Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác bó của Hồ Chí Minh

Honoré de Balzac đã từng nói: “ Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại”. Thật vậy, văn chương không phải là những con chữ xa rời hiện thực cuộc sống, nó gắn liền huyết mạch với những gì đã, đang và sẽ diễn ra. Văn học Việt Nam cũng như dân tộc Việt nam, trải qua bao nốt thăng trầm của lịch sử chống giậc ngoại xâm. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chúng ta có “ Hịch tướng sĩ”, có “ Đại cáo bình Ngô”,… Sau này, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trường kì, một nền Văn học hào hùng và đầy hứng khởi đã được hình thành với cái tên Văn học Cách mạng. Trong dòng chảy của nền văn học yêu nước ấy, có những cái tên lớn với những tác phẩm để lại ấn tượng mãi mãi trong lòng bạn đọc. Một trong số đó không thể không kể đến thi sĩ, chiến sĩ, nhà văn, nhà lãnh tụ vĩ đại của dân tộc – Hồ Chí Minh. Trong chương trinh ngữ văn THCS, chúng ta có điều kiện tiếp cận với kho tàng thi ca của Người. Tiêu biểu là bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó”. Trong bài viết này, chúng ta cần phân tích được ý nghĩa nội dung và đặc sắc về hình thức nghệ thuật để hiểu hết cái hay cái đẹp của thi phẩm và có cái nhìn chân thực nhất về những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Dưới đây là hai bài làm mẫu hy vọng có thể giúp đỡ các bạn trong quá trình học tập.

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 PHÂN TÍCH BÀI THƠ “TỨC CẢNH PÁC BÓ” CỦA HỒ CHÍ MINH

 “ Bác Hồ, Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trai tim nhân loại.” Có một câu hát như thế đã đi qua biết bao những tháng năm. Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, con người “ chỉ biết quên mình cho hế thảy” không phải ngẫu nhiên được Thế giới tôn vinh là Danh nhân Văn hóa. Người không chỉ là một nhà lãnh đạp tài ba, một nhà Văn hóa lớn, một nhà tư tưởng lớn mà còn là một Nhà văn, một thi sĩ. Trong cuốn” Nhật kí trong tù” được viết trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, nhà thi sĩ ấy đã từng bộc bạch:

  • “Ngâm thơ ta vốn không ham”.

Con người ấy chưa một lần nhận mình là thi sĩ. Bác chỉ khẳng định tình yêu đối với văn nghệ nói chung và văn chương nói riêng. Nhưng Người cha già dân tộc chưa một lần nhận mình là thi sĩ ấy đã để lại cho nền Văn học Việt Nam cả một gia tài quý báu. Một trong số đó, bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Tháng Hai năm 1941, sau ba mươi năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Bác Hồ đã về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc. Người sống trong hang Pác Bó- một hang núi nhỏ sát với biên giới Việt- Trung. Trước cửa hang, có một phiến đá gồ ghề được Bác chọn làm nơi ngồi dịch sử Đảng bên một con suối trong vắt được Người đặt tên là suối Lê-nin. Tại đây, Bác Hồ viết bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” để nói về cuộc sống kham khó những ngày đầu của cuộc kháng chiến dai dẳng đánh đuổi thực dân xâm lược, đồng thời thể hiện một tinh thần lạc quang thông qua nhãn quang của người chiến sĩ Cách mạng.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Câu thơ mở đầu gợi hình dung về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác tại hang Pác Bó (Cao Bằng):

  • “Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
 

Nhịp thơ 4/3, chia câu thơ thành hai vế đối nhau rất chỉnh. Đối vế: “ Sáng ra bờ suối “/ “ tối vào hang”, đối thời gian “sáng”/ “tối”, đối hoạt động “ra”/ “vào”, đối không gian thiên nhiên rộng mở “bờ suối” với không gian nhỏ chật hẹp “hang”. Nghệ thuật đối kết hợp với các động từ được sử dụng hết sức giản dị như vẽ ra trước mắt chúng ta một cuộc sống bí mật, tuy thế mà vẫn rất có quy củ, nề nếp. Đặc biệt, giọng thơ cũng giúp ta cảm nhận được tâm trạng thoải mái, ung dung, hòa điệu cùng nhịp sống núi rừng của Bác. Phải chăng đó là bởi con người yêu thiên nhiên, luôn hòa mình với thiên nhiên, đắm say trước vẻ đẹp của thiên nhiên ngay cả trong hoàn cảnh tù đày:

  • “Trong tù không rượu cũng không hoa
  • Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
  • Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
  • Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.”

Nếu nhưu câu thơ thứ nhất giới thiệu khái quát về cuộc sống tại hang Pác Bó – Cao Bằng thì câu thơ thứ hai tiếp tục làm rõ về những ngày sáng sống giản dị và có phần khó khăn ấy:

  • “ Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”

Câu thơ hoàn toàn được thêu dệt bằng bút pháp tả thực. Đó là những món ăn hàng ngày của Bác ở rừng Pác Bó. Cách diễn đạt của nhà thi sĩ ấy rất hóm hỉnh, làm cho câu thơ ánh lên nét cười. Cháo bẹ, rau măng là những món ăn nghèo đạm bạc nhưng chứa chan tình cảm bởi đó là những thức ăn do thiên nhiên ban tặng và người dân cung cấp. Thưởng thức cháo bẹ, rau măng là niềm vui của người chiến sĩ cách mạng luôn biết sống gắn bó với thiên nhiên, với nhân dân. Qua đó có thể thấy Bác Hồ là một người có tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết và coi thường mọi khó khăn gian khổ. Có phải vì thế mà sau này, Người đã răn dạy thế hệ sau:

  • “Không có việc gì khó
  • Chỉ sợ lòng không bền
  • Đào núi vè lấp biển
  • Quyết chí ắt làm nên”?

Câu thơ thứ nhất và câu thơ thứ hai nói về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của Người chiến sĩ cách mạng để rồi đến câu thơ thứ ba, Bác viết về những công việc trong công cuộc hoạt động cách mạng của mình:

  • “ Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Từ láy “ chông chênh” gơi tự thế không vững chãi, không bằng phẳng, không ổn định. Bàn đá chông chênh hay cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho cuộc cách mạng của nhân dân ta thời kì đầu rất khó khăn, gian khổ. Đồng thời đó cũng là một hình ảnh có thực về hòn đá được Người chọn làm nơi làm việc bên con suối trong vắt được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Có thể thấy cuộc sống sinh hoạt đã đạm bạc, nghèo khó, cuộc sống làm việc lại càng thiếu thốn hơn. Bác Hồ hiện lên vừa như một người khách lâm tuyền, vừa là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại.

Bài thơ kết lại với câu thơ nêu cảm nghĩ của Bác về cuộc đời Cách mạng:

  • “ Cuộc đời cách mạng thật là sang”

Câu thơ được viết bằng kiểu câu cảm thán dùng để khẳng định: cuộc đời cách mạng sang. “ Sang” là sự giàu có, là tinh thần của một tâm hồn luôn tìm thấy sự thư thái giữa thiên nhiên. “ Sang” cũng còn là sự sang trọng, giàu có của một con người luôn tự thấy mình sống có ích cho cách mạng, cho nhân dân.

 

Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, giọng thơ gần gũi, ngôn ngữ thơ giản dị, “ Tức cảnh Pác Bó”  như một bức tranh tốc kí với những đường nét rất đỗi thanh sơ, chất phác và mộc mạc về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của vị lãnh tụ vĩ đại nói riếng cũng nhữ những chiến sĩ cách mạng nói riêng những năm đầu cuộc kháng chiến đầy gian nan và thử thách. Từ đó giúp cho thế hệ sau hiểu hơn về giá trị của sự sống hòa bình mà ngày nay ta đang có, biết sống và học tập để trở thành người có ích cho xã hội, góp phần dựng xây và gìn giữ quê hương đất nước.

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 PHÂN TÍCH BÀI THƠ “TỨC CẢNH PÁC BÓ” CỦA HỒ CHÍ MINH.

Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục năm trời xa cách đất nước và dân tộc.

Trong ba câu thơ đầu bài thơ, Bác nhắc đến điều kiện ở – ăn – làm việc của mình. Ăn và ở là hai nhu cầu tất yếu của con người. Và riêng Bác, khi nói đến đời sống sinh hoạt của mình, Người luôn đề cập thêm vấn đề công việc. Ấy bởi Bác là người luôn luôn làm việc, suốt đời lo cho dân, cho nước. Điều đó cho thấy tấm lòng của Bác vĩ đại đến nhường nào:

  • “Sáng ra bờ suối, tối vào hang
  • Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
  • Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Câu thơ đầu nói về nơi ở của người chiến sĩ. Nhịp thơ 4/3 tạo thành hai vế sóng đôi. Câu thơ toát lên một cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào. Không gian: suối – hang, thời gian: sáng – tối, hoạt động: vào – ra. Nghệ thuật đối làm nổi bật không gian hoang sơ, khó khăn, nếp sống hài hòa, gắn bó với thiên nhiên của Bác. Giọng điệu cấu thơ rất thoải mái cho thấy sự ung dung, sự hòa nhịp của Bác Hồ với núi rừng nơi đây. Cuộc sống đều đặn với khung cảnh bờ suối bình dị, với nơi ở là hang tối. Không chỉ khó khăn về nơi ở, đồ ăn uống của Bác cũng rất hạn chế. Đó chỉ là những thứ rất dân dã, sẵn có của núi rừng như cháo bẹ, rau măng: “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”. Câu thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê, tái hiện chân thật cuộc sống của người chiến sĩ Cách mạng. Giọng thơ đùa vui, hóm hỉnh; câu thơ vẫn tiếp tục mạch cảm xúc hòa nhịp với cuộc sống núi rừng. Cuộc sống nơi đây nhiều gian khổ, khó khăn nhưng Người luôn vui thích, bằng lòng với cuộc sống ấy. Thậm chí Người còn cảm thấy rất thoải mái, rất sảng khoái.
Niềm vui ấy đã làm cho Bác say mê làm việc, say mê trong bước đường hoạt động và lãnh đạo kháng chiến:

  • “Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”

Đây là hình tượng trung tâm của bài thơ. Cuộc sống giữa núi rừng thật gian khổ, vất vả, thiếu thốn. Nơi làm việc cũng không lấy gì thoải mái vì bàn đá chông chênh, nhưng dáng điệu của Bác vẫn lồng lộng đường hoàng. Bác say mê với công việc, tập trung cao độ vào công việc mà chẳng hề quan tâm đến vật chất quanh mình. Từ láy chông chênh vừa tạo hình, vừa gợi cảm. Đó là thế không vững chãi vì không có chỗ dựa. Bàn làm việc là tảng đá không chắc chắn nhưng Người vẫn làm việc say sưa, khỏe khoắn với công việc: dịch sử Đảng, tìm ra đường lối để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Phép đối (đối ý, đối thanh) cho thấy điều kiện làm việc rất đơn sơ nhưng công việc rất lớn lao. Câu thơ mang giọng điệu mạnh mẽ, khắc họa chân thực, sinh động phong thái ung dung, lạc quan của người chiến sĩ.

 

Ba câu thơ đầu thể hiện một cách đầy đủ niềm vui thú được sống với rừng, suối của Bác Hồ. Cuộc sống của Bác nhiều gian khổ, khó khăn nhưng Bác hoà nhịp với cuộc sống núi rừng ấy, với suối, với hang, với cháo bẹ, với rau măng, với bàn đá. Cuộc sống đó với Người không những không nghèo khổ, thiếu thốn mà còn dư thừa, sang trọng. Có được điều đó là do tinh thần lạc quan của Bác. Vì thế:

  • “Cuộc đời cách mạng thật là sang”

“Sang” ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đầy đủ, cao quý. Sở dĩ Người cảm thấy nó “thật là sang” bởi vì nó là cuộc đời cách mạng, được cống hiến cho cách mạng. Với những người cách mạng, nhất là những người dẫn đường như Bác “Người đi trước ngàn sương muôn tuyết. Dắt dìu dân nước Việt Nam ta” (Tố Hữu – Ba mươi năm đời ta có Đảng) thì khó khăn, gian khổ chỉ là sự trả giá, nói như Nguyễn Trãi: “Khó khăn thì mặc có màng bao”. Thử so sánh hai hoàn cảnh sống: ở Pác Bó Việt Nam và hơn một năm sau đó, gần 30 nhà ngục ở Quảng Tây, Trung Quốc, điều kiện tinh thần tuy có khác nhau nhưng hoàn cảnh sống không hơn là mấy. Nói như thế mà thương Bác vô cùng, hiểu Bác vô cùng. Trong gian truân, Người đâu nghĩ đến bản thân mình. Nghĩ đến sự nghiệp của cách mạng, đất nước mà Người vui, nhất là tin, tin vào thời cơ độc lập đang đến gần. Vì thế “sang” được coi là nhãn tự của câu thơ và câu thơ được coi là thần cú của bài thơ. Khẩu khí này khác hẳn với những câu thơ Người viết hơn một năm sau đó trong “Nhật kí trong tù”. Bởi lẽ cái thiếu thốn đoạ đày nơi ngục tù với Người là một thứ cực hình tra tấn, còn ở bài thơ này, nó lại là một niềm vui, nguồn cảm hứng thi nhân. 

“Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ tứ tuyệt rất giản dị nhưng rất hàm súc, ý nghĩa thật sâu xa. Lời thơ pha giọng vui đùa cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung cả Bác Hồ trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừng Việt Bắc. Tinh thần ấy đã giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian khổ để lãnh đạo cách mạng Việt Nạm giành thắng lợi vẻ vang.

Nguồn Internet