Tìm Kiếm

Phân tích cảm nhận 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Buồn trông

Nguyễn Du là thiên tài văn học, danh nhân văn hóa, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” là kiệt tác văn học, kết tinh những giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của văn học dân tộc. Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý. Ông ngợi ca vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân của nàng, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn và đức hạnh của nàng nhưng đồng thời ông cũng khóc cho Kiều vì những đau đớn Kiều phải trải qua. Trong mỗi nét vẽ rất dụng công của Nguyễn Du ta đều thấy tâm sự của Thúy Kiều, đều thấy tiếng lòng Nguyễn Du trong đó. Có thể nói tám câu thơ cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một minh chứng rõ nhất. Trong chương trình Ngữ Văn 9, chúng ta bắt gặp đề văn bình giảng đoạn “Buồn trông…” đòi hỏi người viết phải làm nổi bật được cái hay về nội dung và đặc sắc về nghệ thuật. Dưới đây là bài văn mẫu bình giảng đoạn “Buồn trông…”

Bài làm Phân tích cảm nhận 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích Buồn trông

Nguyễn Du -người đưa nền văn học chữ Nôm của dân tộc ta phát triển tới đỉnh cao từ thế kỉ XVIII với kiệt tác “Truyện Kiều”. Người ta say mê Kiều không chỉ bởi tài năng của Nguyễn Du mà có lẽ trước hết là ở tấm lòng nhân đạo ông dành cho người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Đến với tám câu cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều qua cách nhìn cảnh vật.

Đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” nằm ở phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Khi gia đình gặp cơn hoạn nạn, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha. Đời nàng rẽ lối, những nốt nhạc đầu tiên trong “thiên bạc mệnh” đã ngân lên. Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà lừa gạt đẩy vào lầu xanh. Đau đớn và tủi nhục, Kiều đã tự tử nhưng không thành. Sau đó Tú Bà đành phải đưa Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích với lời hứa sẽ kén chồng cho nàng vào nơi tử tế. Trong giờ phút bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng Kiều lại ngổn ngang trăm mối. Một nỗi buồn mênh mang đang choán ngợp tâm hồn Kiều: rời xa người yêu, rời xa cha mẹ để rồi nhìn đâu nàng cũng thấy buồn. Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để thể hiện tâm trạng Kiều. Mỗi cảnh vật là một bức tranh tâm trạng:

  •                “Buồn trông cửa bể chiều hôm
  •         Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? “
 

Câu thơ tả cảnh biển khơi mênh mông trong ánh chiều dần tắt lịm. Thời điểm buổi chiều dễ gợi buồn, gợi nhớ, nhất là với những kẻ tha hương. Biển bao la nhưng chỉ có một con thuyền “thấp thoáng” “xa xa” lúc ẩn lúc hiện, như có như không. Sự lẻ loi, đơn chiếc của chiếc thuyền phải chăng cũng chính là thân phận bơ vơ, côi cút của Kiều nơi góc bể chân trời, một mình cô độc. 

Sau cảnh biển bao la chấp chới con thuyền là đến cảnh hoa rơi sóng nước

  •                “Buồn trông ngọn nước mới sa
  •         Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Thuyền trôi vô định, hoa cũng trôi vô định chẳng biết về đâu. Nhìn cánh hoa rơi nơi sóng nước, Kiều lại liên tưởng đến thân phận mình. Đời nàng cũng có khác chi một đóa phù dung sớm nở tối tàn. Hoa lìa cành hoa héo, hoa tàn, hoa rơi sóng nước sẽ bị gió dập sóng dồi. Kiều xa cha mẹ, đời nàng cũng như cánh chim lạc bầy trong giông tố không tự quyết định được tương lai của mình. Kiều cũng đang nhắm mắt đưa chân mặc dòng đời xô đẩy. 

Sóng nước mênh mông, trôi nổi, Kiều nhìn xuống mặt đất cũng chỉ một màu vàng úa:

  •                “Buồn trông nội cỏ rầu rầu
  •         Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
 

Không phải là “cỏ non xanh tận chân trời” như ngày Tết Thanh minh mà là “nội cỏ rầu rầu” màu vàng úa, héo hắt, tàn tạ, thê lương. Màu “xanh xanh” nhàn nhạt tạo cho cỏ cây không còn nét tươi mà thêm vẻ “rầu rầu” tạo thành một màu sắc buồn, tẻ ngắt. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài năng sắc sảo đủ mùi của nàng đã, đang và sẽ nhạt buồn vô vị như nội cỏ rầu rầu kia. Đời Kiều rồi cũng giống như đời Đạm Tiên tài sắc vẹn toàn để rồi “Sống làm vợ khắp người ta / Hại thay thác xuống làm ma không chồng”.

Khép lại đoạn thơ là những âm thanh dữ dội:

  •                “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
  •         Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Biển khơi đang êm ả, phẳng lặng bỗng vang lên những âm thanh ghê gớm, khủng khiếp. Tiếng sóng ầm ầm khắp bốn phía như muốn cuốn hết đi thân phận nhỏ bé của Kiều, như sẵn sàng đẩy con người xuống vực thẳm. Sóng gió biển khơi hay sóng gió cuộc đời đang đón đợi nàng? Đó là những âm thanh định mệnh báo trước một tai ương đầy bất trắc. Để rồi sau đó Kiều mắc lừa Sở Khanh và rơi vào cảnh “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như ngụ tình. Cảnh và tình uốn lượn song song, mỗi cảnh là một bức tranh tâm trạng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác đến âu lo, kinh sợ. Cảnh vật thay đổi, bốn bức tranh tạo thành một bộ tranh tứ bình về tâm trạng của Kiều. Cụm từ “Buồn trông… ” mở đầu câu thơ lục tạo âm hưởng trầm buồn đã trở thành điệp khúc đoạn thơ và điệp khúc tâm trạng Thúy Kiều. Những câu hỏi tu từ cùng với một loạt các từ láy gợi hình gợi cảm đã góp phần làm xô dậy những cơn sóng lòng của Kiều. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” cho ta thấy rõ những nét tâm trạng của Kiều, giúp ta có những dự cảm đau đớn về tương lai Kiều phía trước đồng thời làm sáng lên cái tài, cái tâm và cái tầm của một thiên tài Nguyễn Du. 

 

Đoạn trích được nhiều người biết đến và quý trọng. Có lẽ vừa bởi cái tài lớn của Nguyễn Du trong bút pháp tả cảnh ngụ tình vừa bởi tấm lòng nhân đạo chủ nghĩa lớn của ông lay động tâm thức người đọc một nỗi xót xa, đồng cảm với thân phận của những con người tài hoa bạc mệnh. 

Nguồn Internet