Tìm Kiếm

Luyện tập về phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

Luyện tập về phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

Hướng dẫn

Luyện tập về phong cách ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ nghệ thuật: là ngôn ngữ được dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được hiệu quả nghệ thuật- thẩm mĩ.

– Ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật bao gồm:

+ Ngôn ngữ tự sự (trong truyện, tiểu thuyết, bút kí, phóng sự…)

+ Ngôn ngữ trong thơ 9trong ca dao, vè, thơ…)

+ Ngôn ngữ sân khấu (trong kịch, chèo, tuồng…)

Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật mang 3 đặc trưng:

1- Tính hình tượng: Ngôn ngữ nghệ thuật không trực tiếp thể hiện tư tưởng, tình cảm, mà thể hiện thông qua hình ảnh hoặc hình tượng ở ngôn ngữ

VD câu ca dao:

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

Câu ca dao nêu ở trên: thể hiện cái đẹp trong lao động thông qua hình tượng “múc ánh trăng vàng”. Nhờ hình tượng mà ngôn ngữ nghệ thuật thường có tính đa nghĩa, hàm súc.

2- Tính truyền cảm:

Ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ bộc lộ cảm xúc, tình cảm của tác giả mà còn khơi gợi ở người đọc, người nghe những cảm xúc thẩm mĩ.

VD: VD câu ca dao trên gợi ở người nghe những rung động trước vẻ đẹp của con người và thiên nhiên trong lao động sản xuất nông nghiệp.

3- Tính cá thể hoá:

Ngôn ngữ nghệ thuật tạo được vẻ riêng của nhân vật, của tác giả, của từng sự vật, hiện tượng không trùng lặp.

VD: Câu ca dao trên đã chọn được một hình ảnh độc đáo “múc ánh trăng vàng” để nói lên vẻ đẹp trong lao động

Luyện tập:

1- Bài tập 1:

Phân tích đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện qua bài thơ sau:

Quả sấu non trên cao

Chót trên cành cao vót

Mấy quả sấu con con

Như mấy chiếc khuy lục

Trên áo trời xanh non

Trời rộng lớn muôn trùng

Đóng khung vào cửa sổ

Làm mấy quả sấu tơ

Càng nhỏ xinh hơn nữa

Trái con chưa đủ nặng

Để đeo oằn cành cong

Nhánh hãy giơ lên thẳng

Trông ngây thơ lạ lùng.

Cứ như thế trên trời

Giữa vô biên ánh nắng

Mấy chú quả sấu non

Giỡn cả cùng mây trắng

Mấy hôm trước còn hoa

Mới thơm đầy ngào ngạt

Thoáng như một nghi ngờ

Trái đã liền có thật

Ôi! từ không đến có

Xảy ra như thế nào?

Nay má hây hây gió

Trên lá xanh rào rào

Một ngày một lớn hơn

Nấn từng vòng nhựa một

Một sắc nhựa chua giòn

Ôm đọng tròn quanh hột.

Trái non như thách thức

Trăm thứ giặc, thứ sâu

Thách kẻ thù sự sống

Phá đời không dễ đâu.

Chao! Cái quả sấu non

Chưa ăn mà đã giòn

Nó lớn như trời vậy

Và sẽ thành ngọt ngon.

(Xuân Diệu)

Gợi ý bài tập:

Bài thơ thể hiện những đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật qua những phương diện sau:

– Về chức năng:

+ Bài thơ làm nhiệm vụ cung cấp hiểu biết về quả sấu, tuy rằng vẫn có ít nhiều thông tin về quả sấu: vị trí, quá trình phát triển, màu sắc, độ chua giòn.

+ Chức năng chủ yếu là chức năng thẩm mĩ: từ hình tượng quả sấu để nói về sự sống, về quá trình hình thành, phát triển, bảo vệ sự sống nói chung và con người nói riêng.

– Hình tượng trung tâm: là hình tượng quả sấu non. Đó là hình tượng cụ thể, sinh động nhưng qua đó nói lên nhiều ý nghĩa khái quát sâu xa. Tính hình tượng có quan hệ mật thiết với tính hàm súc.

– Hình tượng quả sấu non được tạo nên bởi những chi tiết cụ thể, sinh động: hình dáng, vị trí, màu sắc, mùi vị… Những điều đó cũng bộc lộ tính cá thể không lẫn với hình tượng khác.

– Bài thơ tràn đầy cảm xúc thẩm mĩ: nâng niu quí trọng cái đẹp dù nhỏ bé, mộc mạc, đơn sơ.

2- Bài tập 2:

So sánh 2 văn bản sau về các phương diện:

– Nội dung thông tin về cây xấu hổ: Văn bản nào có nhiều nội dung, tri thức cụ thể về cây xấu hổ?

– Nội dung biểu cảm: Văn bản nào biểu cảm mhững cảm xúc, tình cảm về cây xấu hổ và cả cảm xúc của cây xấu hổ?

– Hình tượng cây xấu hổ ở văn bản nào sinh động hơn, mang cá tính rõ nét, có ý nghĩa cao xa hơn?

– Từ đó xác định phong cách ngôn ngữ của 2 văn bản?

a- “Cây xấu hổ … Cây nhỏ mọc hoang, thân có gai, lá kép lông chim khép lại khi đụng đến, hoa màu đỏ tía”.

b- Cây xấu hổ

Bờ đường 9 có lùm cây xấu hổ

Chiến sĩ đi qua ai cũng mỉm cười

Giữa một vùng lửa cháy bom rơi

Tất cả lộ nguyên hình trần trụi

Cây xấu hổ với màu xanh bối rối

Tự giấu mình trong lá kép lim dim.

Chiến sĩ đi qua đây, ai cũng bước rất êm

Khi bất chợt thoảng một bàn chân lạ

Cây vội vã nhắm nghìn con mắt lá

Nhựa dồn lên cành khẽ ngả như chào.

Người đi qua rồi bóng dáng cứ theo sau

Anh lính trẻ bỗng quay đầu tủm tỉm

Cây đã hé những mắt tròn chúm chím

Đang thập thò nghịch ngợm nhìn theo.

Phút lạ lùng trời đất trong veo

Anh nghe có tiếng reo thầm gặp gỡ

Nhiều dáng điệu thoảng qua trong trí nhớ

Rất thân quen mà chẳng gọi lên lời.

Giữa một vùng lửa cháy bom rơi

Cây hiện lên như một niềm ấp ủ

Anh lính trẻ hái một cành xấu hổ

Ướp vào trong trang sổ của mình

Và chuyện này chỉ có cây biết với anh.

(Anh Ngọc)

Gợi ý:

Hai văn bản cùng có một đề tài về câu xấu hổ. Nhưng khác nhau về chức năng và những đặc trưng cơ bản:

– Văn bản a là văn bản khoa học – một mục trong từ điển tiếng Việt.

+ Nó có chức năng chủ yếu là thông qua việc giải thích nghĩa của từ mà cung cấp thông tin về loại cây xấu hổ:

+ Kích thước, tính chất, đặc điểm về thân, về lá, về hoa. Nó không quan tâm đến mặt thẩm mĩ cũng như sắc thái cảm xúc.

+ Nó thông tin trực tiếp mà không qua hình tượng nào khác.

– Văn bản b:

+ Ngoài việc đề cập một số thông tin về cây xấu hổ (nơi sống, đặc điểm nổi bật về lá) thì quan trọng là thực hiện chức nawmg thẩm mĩ: nói lên cái đẹp giản dị, ngộ nghĩnh, vui tươi của cuộc sống, bất chấp hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.

+ Hình tượng trung tâm là hình tượng cây xấu hổ, đó là hình tượng của sự sống, của con người vui tươi, hồn nhiên, yêu đời, chất chứa một cảm xúc tinh tế, dí dỏm.

+ Đó cũng là hình tượng mang tính cụ thể và tính cá thể, không thể lẫn lộn với hình tượng khác.

Bài thơ để lại một ấn tượng khó quên đó là hình tượng cây xấu hổ.
phong cách ngôn ngữ

Theo Sachvanmau.com