Tìm Kiếm

Bài văn Cảm nghĩ về người lính trong Tiểu đội xe không kính hay

Lịch sử Việt Nam trải qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại là kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ. Trong cả hai cuộc chiến tranh vĩ đại ấy, đã có không biết bao nhiêu những con người sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Nổi bật nhất chính là hình ảnh người lính Cụ Hồ, người chiến sĩ cách mạng – những con người dũng cảm, lạc quan, giàu ý chí chiến đấu. Tượng đài về họ được bất tử hóa trong lòng mỗi người con đất Việt, được sống mãi trong những trang văn, trang thơ có sức sống muôn đời. Phạm Tiến Duật từ cảm hứng ấy cũng góp vào văn học dân tộc với “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Trong chương trình Ngữ Văn 9, chúng ta bắt gặp đề văn cảm nghĩ về hình ảnh những người chiến sĩ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Với đề bài này đòi hỏi mỗi người phải làm rõ được những vẻ đẹp nổi bật của người lính lái xe Trường Sơn. Dưới đây là bài văn mẫu cảm nghĩ về những người chiến sĩ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Phạm Tiến Duật. 

BÀI LÀM MẪU SỐ 1 CẢM NGHĨ CẢM NHẬN VỀ NGƯỜI LÍNH, VỀ NHỮNG NGƯỜI CHIẾN SĨ TRONG “BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH”

Phạm Tiến Duật là gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc, tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh những người chiến sĩ Trường Sơn dũng cảm, hiên ngang, lạc quan, giàu ý chí chiến đấu. 

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính: được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, hiên, lạc quan, giàu ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Dù phải ngồi trên xe không kính vì “bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi” nhưng những người lính lái xe hiện lên với tư thế hiên ngang lạ thường:

  • “Ung dung buồng lái ta ngồi
  • Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thơ đã làm nổi bật tư thế hiên ngang của người lính lái xe. Điệp từ “nhìn” kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 đã mở rộng không gian đất trời để nhấn mạnh cái nhìn trực diện không đổi, không hề run sợ trước khó khăn, gian khổ. Điều đó thể hiện một bản lĩnh vững vàng của người lính lái xe. 

Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi tiếp xúc trực tiếp với không gian bên ngoài:

  • “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
  • Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
  • Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
  • Như sa, như ùa vào buồng lái”

Xe không kính nên giữa người lính lái xe và không gian bên ngoài không hề có sự ngăn cách. Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể ấn tượng những cảm giác sống động của người lính lái xe: có gió, có con đường, có sao trời, có cánh chim,… tất cả như giao hòa cùng con người. Xe băng băng tiến về phía trước, con đường giải phóng miền Nam như chạy thẳng vào tim. Những hình ảnh so sánh kết hợp cùng phép điệp ngữ “nhìn thấy, thấy”,”như sa, như ùa” không chỉ thể hiện những cảm giác thú vị mà còn gợi cả tốc độ phi thường của đoàn xe quân sự trên con đường huyền thoại. 

 

Những người lính lái xe còn có có tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, khó khăn:

  • “Không có kính ừ thì ướt áo 
  • Bụi phun tóc trắng như người già”

Đường Trường Sơn đất lẫn sỏi đá, bom đạn giặc Mĩ cày xới, mùa mưa thì lầy lội, mùa khô thì bụi mịt mù. Động từ “phun” đã đặc tả mức độ bụi đường. Trước khó khăn, gian khổ, người lính đón nhận một cách thản nhiên: “không có kính ừ thì có bụi”, cũng “chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Sau nỗi khổ bụi đường là nổi khổ vì mưa rừng Trường Sơn:

  • “Không có kính ừ thì ướt áo
  • Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”

Xe không kính nên trong buồng lái cũng như ngồi ngoài trời ướt áo. Nhưng người lính đón nhận khó khăn ấy một cách thản nhiên bởi “không có kính ừ thì ướt áo”, cũng “chưa cần thay lái trăm cây số nữa” để “mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.

Những người lính lái xe còn có tình đồng đội keo sơn, gắn bó. Trên con đường tiến về giải phóng miền Nam phía trước – con đường chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn bè: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Tình đồng đội được thể hiện thật cảm động qua chi tiết độc đáo: “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính nên người lính bắt tay nhau một cách tự nhiên, thoải mái mà không cần mở cửa. Họ bắt tay nhau để thể hiện sự an tâm về đồng đội, cái bắt tay ấy như truyền cho nhau sức mạnh, niềm tin để cùng nhau chắc tay lái tiến về giải phóng miền Nam phía trước. Những bữa cơm đạm bạc đã giúp họ thắp lửa thêm tình đồng đội yêu thương: 

  • “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời 
  • Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Bữa cơm đơn sơ nhưng đượm tình đồng chí giúp họ mạnh mẽ vượt lên khó khăn gian khổ, tiến về giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. 

Không những thế, người lính lái xe còn có ý chí chiến đấu:

  • “Không có kính rồi xe không có đèn
  • Không có mui xe, thùng xe có xước
  • Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước 
  • Chỉ cần trong xe có một trái tim. “

Điệp từ “không” kết hợp với phép liệt kê: kính, đèn, mui xe, thùng xe” đã tô đậm một cách chân thực tới mức trần trụi hình ảnh những chiếc xe bị bom Mĩ phá hủy đến toàn bộ. Nhưng mọi thứ của xe có thể không có, không còn nguyên vẹn, song chỉ cần vẹn nguyên “một trái tim” thì xe vẫn chạy băng băng về phía trước mà không bom đạn nào ngăn cản được. “Trái tim” là hình ảnh hoán dụ chỉ về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn dũng cảm, hiên ngang, giàu ý chí chiến đấu. Chính trái tim ấy đã khiến xe và người thành một khối thống nhất với sức mạnh kì diệu hăm hở tiến ra chiến trường. 

Bài thơ đã khắc họa hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn qua những nét nghệ thuật đặc sắc. Giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc được tạo bởi những cấu trúc “không có… không phải vì… không có”, “không có… ừ thì… chưa cần”. Hình ảnh thơ độc đáo sáng tạo – hình ảnh xe không kính góp phần làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe. Sự kết hợp giữa cảm hứng sử thi và bút pháp hiện thực tạo nên những vần thơ đầy chất hiện thực mà giàu chất triết lí. Cùng với “Những ngôi sao xa xôi” – Lê Minh Khuê, “Mảnh trăng cuối rừng” – Nguyễn Minh Châu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã góp thêm một nét độc đáo về vẻ đẹp tuổi trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước. 

 

Với thể thơ tự do, giọng điệu sôi nổi, bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ cứu nước. Qua đó bồi dưỡng mỗi người tinh thần lạc quan, dũng cảm và ý chí chiến đấu vượt lên mọi gian khổ, khó khăn. 

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NHẬN VỀ NGƯỜI LÍNH LÁI XE TRONG “BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH”

Nếu trong bài thơ “Tây Tiến” nhà thơ Quang Dũng khắc tạc hình tượng người lính hào hùng, hào hoa và bi tráng thì nhà thơ Phạm Tiến Duật lại đậm tô vẻ đẹp ngang tàng mà anh dũng của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mỹ.

Ta bắt gặp ở những anh lính trong tiểu đội lái xe có một tinh thần lạc quan phi thường. Các anh hóm hỉnh khi lý giải nguyên nhân chiếc xe của mình không có kính:

  • “Không có kính không phải vì xe không có kính
  •   Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

Bằng kết cấu câu phủ định liên tiếp “không có, không phải, không có” đưa đến một khẳng định, đoàn xe được trang bị đầy đủ quân khí, đoàn xe cùng các anh trải qua bao trận mưa bom bão đạn của kẻ thù. Sức công phá, sự hủy diệt dữ dội của quân thù được thể hiện qua điệp từ “bom”- thứ khí giới hiện đại làm vỡ tan từng mảnh kính. Thái độ bất cần “vỡ đi rồi” và tư thế hiên ngang của các anh không hề mảy may bận tâm tới những thiếu thốn đó:

  • “Ung dung buồng lái ta ngồi
  •   Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Biện pháp đảo ngữ đưa tính từ “ung dung” lên đầu câu nhấn mạnh vẻ điềm nhiên của anh bộ đội cụ Hồ cùng với điệp ngữ “nhìn”, những không gian rộng lớn mở ra trước mắt người lính. Đó có thể là những khó khăn nhưng ánh nhìn “thẳng” vửa ngạo nghễ vừa kiêu hùng như thách thức mọi khó khăn. Winton Churchill từng nói: “A pessimist sees the difficult in every opportunity; an optimist sees the opportunity in every difficulty” ( Người bi quan nhìn thấy khó khăn trong cơ hội, người lạc quan nhìn thấy cơ hội trong khó khăn). Thật vậy, Niềm lạc quan giúp người lính trong tiểu đội xe không kính tìm thấy những thuận lợi từ những nguy khó trước mắt:

  • “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
  • Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
  • Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
  • Như sa như ùa vào buồng lái”

Với vẻ điềm tĩnh và giọng điệu hài hước, những chiếc xe không kính không còn là trở ngại mà nó trở thành phương tiện hữu dụng giúp các anh giao hòa với thiên nhiên: gió, sao trời, chim. Làn gió lùa vào buồng lái làm xoa dịu đôi mắt đắng, mỏi vì những đêm thúc trắng điều khiển tay lái. Trong tâm hồn mạnh mẽ, đầy bản lĩnh của tuổi trẻ các anh coi thường những thử thách để thép thực sự được tôi luyện:

  • “Không có kính, ừ thì có bụi,
  • Bụi phun tóc trắng như người già
  • Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
  • Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
  •  
  • Không có kính, ừ thì ướt áo
  • Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
  • Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
  • Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
 

Có lẽ không gì khắc nghiệt hơn thời tiết ở tuyến đường Trường Sơn. Những ngày nắng cháy da cháy thịt, bụi mù con đường đất đỏ, ngày mưa xối xả như đổ thác làm rát mặt. Những người lính của chúng ta đối diện với chúng khi “không có kính”, nhưng không một lời oán trách, các anh chấp nhận nó như một lẽ tự nhiên trong đời lính qua điệp ngữ “ừ thì”. Tiếng cười giòn tan “ha ha” vang lên khắc họa vẻ ngang tàng đã vượt lên trên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh.

Những người lính lái xe thắt chặt tình cảm đông đội với những cái bắt tay thân ái, đầy tin cậy qua ô cửa kính vỡ. Tình cảm đồng đội gắn bó keo sơn như máu thịt như một gia đình khiến ta không khỏi cảm động:

  • “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Nghĩa cử bình dị “chung bát đũa” nhưng ở đó những người lính cùng san sẻ bát cơm manh áo, họ cùng chung chí hướng với quyết tâm rực cháy:

  • “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”

Bầu trời hòa bình đón đợi các anh đó là động lực dồi dào của nghị lực, là sợi dây bền chặt để tình đồng đội thêm khăng khít.

Nhà thơ đậm tô hình ảnh người lính dũng cảm cùng niềm tin mãnh liệt. Trước vô vàn những mất mát từng đoàn xe vẫn không lùi bước tiến về miền Nam để giải phóng, thống nhất đất nước:

  • “Không có kính, rồi xe không có đèn,
  • Không có mui xe, thùng xe có xước,
  • Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
  • Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Thiếu thốn chồng chất với điệp từ “không” và phép liệt kê một loạt bộ phận: kính, đèn… nhưng cân bằng tất cả chỉ “có một trái tim”. Hình ảnh hoán dụ chỉ cội nguồn của sức mạnh chính là lòng yêu nước sâu nặng, biểu tượng đẹp đẽ sự can trường mà không kém một chút “ngông” trong đó.

Qua hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính, bài thơ khắc tạc bức tượng đài người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy khói lửa vẻ đẹp ngang tàng với ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sắt đá, tinh thần lạc quan và tình đồng đội gắn kết.

Nguồn Internet