Tìm Kiếm

Showing posts with label Lớp 12. Show all posts
Showing posts with label Lớp 12. Show all posts

Soạn bài Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt – soạn văn lớp 12

Soạn bài Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt – soạn văn lớp 12

Bài làm

I. Sự trong sáng của tiếng Việt
1. Nói hoặc viết đúng chuẩn mực, đúng quy tắc của tiếng Việt

Chuẩn mực không phù nhận những sự chuyển đổi linh hoạt, những sự sáng tạo, không phủ nhận cái mới, miễn là cái sáng tạo, cái mới phù hợp với phương thức chung, quy tắc chung.

2. Không cho phép pha tạp, lai căng một cách tùy tiện những yếu tố của một ngôn ngữ khác. Để cho tiếng Việt trong sáng, giàu có và phát triển một mặt cần tiếp thu những tinh hoa trong các ngôn ngữ khác, đồng thời tránh lạm dụng, pha tạp khi không cần thiết.

3. Sự trong sáng của tiếng Việt cũng biểu hiện ở tính văn hóa, lịch sử của lời nói. Nói năng lịch sự, có văn hóa chính là sự biểu lộ sự trong sáng của ngôn ngữ. Ngược lại, nói năng thô tục, thiếu văn hóa, bất lịch sự tức làm cho tiếng Việt mất đi vẻ trong sáng vốn có của nó.

II. Luyện tập

Câu 1: Tính chuẩn xác trong việc dùng từ ngữ của Hoài Thanh và Nguyễn Du khi lột tả tính cách các nhân vật trong Truyện Kiều.

giu gin su trong sang cua tieng viet soan van 12 - Soạn bài Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt – soạn văn lớp 12

Câu 2: Đặt lại các dấu câu vào vị trí thích hợp để đảm bảo sự trong sáng của đoạn văn

“Tôi có lấy ví dụ về một dòng sông. Dòng sông vừa phải trôi chảy vừa phải tiếp nhận – dọc đường đi của mình – những dòng nước khác. Dòng ngôn ngữ cũng vậy – một mặt nó phải giữ bản sắc cố hữu của dân tộc nhưng nó không được phép gạt bỏ từ chối những gì mà thời đại đem lại.”

 

Cách điền khác:

“Tôi có lấy ví dụ về một dòng sông. Dòng sông vừa phải trôi chảy vừa phải tiếp nhận (dọc đường đi của mình) những dòng nước khác. Dòng ngôn ngữ cũng vậy: một mặt nó phải giữ bản sắc cố hữu của dân tộc nhưng nó không được phép gạt bỏ từ chối những gì mà thời đại đem lại.”

Câu 3: Nhận xét

Có sự lạm dụng từ nước ngoài (tiếng Anh):

– Các từ lạm dụng là: fan, file, hacker.

– Thay thế lần lượt: người hâm mộ, tập tin, tin tặc.

Bài dự thi cuộc thi Viết về cuốn sách tôi yêu

Bài dự thi cuộc thi Viết về cuốn sách tôi yêu

Bài làm

Tôi là Nga, Trần Thúy Nga học sinh lớp 12a1. Mọi người vẫn thường gọi tôi là Nga Stronger (Nga Mạnh Mẽ). Chắc hẳn bạn sẽ thắc mắc vì sao tôi lại có cái tên đó đúng không? Nó xuất phát từ một biến cố đã xảy ra gần ba năm về trước, khi tôi còn là một cô bé mười sáu tuổi ngây thơ và nhiều mơ mộng. Tuổi mười sáu, cái tuổi ở lưng chừng giữa con nít và người lớn, cái tuổi thật đẹp khi con người ta chưa phải vướng bận nhiều về chuyện “cơm áo, gạo tiền”. Cô bé tôi mười sáu tuổi khi ấy cũng như bao bạn bè cùng trang lứa, ngày ngày cắp sách đến trường, được sống và cháy hết mình cho những ước mơ với bầu nhiệt huyết đang sục sôi trong lòng. Nhưng rồi những ngày tháng tươi đẹp đó cũng phải khép lại, khi tôi nhận được kết quả sinh thiết từ Bác sĩ rằng tôi bị ung thư. Con bé mười sáu tuổi với đôi mắt trong veo nhìn cuộc đời khi đó đã ngơ ngác và hoảng loạn biết bao. Tôi của mùa hè năm ấy tưởng chừng như đã chết vùi trong ước mơ của tuổi mười sáu. Khóc thét trong vô vọng, cô lập và sợ hãi. Tôi cũng đã từng ước căn bệnh đó không rơi trúng tôi… Rằng tôi sẽ lại được sống một cuộc đời bình thường như trước kia… Nhưng cuộc đời đã chọn tôi phải chịu nghịch cảnh thì ngoài việc đối mặt và chiến đấu tôi còn có lựa chọn nào nữa đâu. Tôi còn quá trẻ, còn quá nhiều điều ấp ủ chưa thực hiện và hơn bất cứ điều gì khác tôi sợ ba mẹ tôi sẽ đau lòng, tôi sợ họ sẽ phải khóc thật nhiều nếu lỡ tôi có chuyện gì xảy ra… Nên tôi không cho phép mình gục ngã, tôi không cam tâm để số phận khuất phục mình. Và rồi tôi đã chiến thắng “căn bệnh tử thần” như một phép màu trong sự ngạc nhiên, vui sướng và cả xúc động của những người yêu thương tôi. Cho đến bây giờ, khi nghĩ về những tháng ngày đã qua, tôi luôn thầm cảm ơn cuộc đời đã mang đến cho tôi những trải nghiệm thật quý giá mà không phải ai cũng “may mắn” có được và “ung thư theo một cách nào đó cũng chính là một cơ hội để ta nhìn lại chính mình, là một mảnh hy vọng và là một lý do để chiến đấu.” Và cũng chính vào lúc tâm trạng của tôi đang còn nhiều ngổn ngang thì cuốn sách “Nếu biết trăm năm là hữu hạn” của cặp vợ chồng nhà báo Phạm Công LuậnĐặng Nguyễn Đông Vy cùng lấy bút danh là Phạm Lữ Ân do nhà xuất bản hội nhà văn cùng Phương Nam book ấn hành đã đến nhưng một tia nắng ấm, một liều thuốc tinh thần vực dậy tôi, giúp tôi vững vàng hơn với “cơn bão dữ” của cuộc đời mình.

 

 Đã hơn 5 năm kể từ ngày xuất bản, nhưng “Nếu biết trăm năm là hữu hạn” chưa bao giờ thôi làm xốn xang trái tim của biết bao bạn đọc may mắn được một gặp gỡ. Nó trở thành cuốn sách best seller với hơn 14 lần tái bản. Lần đầu cầm trên tay cuốn sách nhỏ này tôi đã có một cảm giác rất lạ, nó như là một “sinh mệnh” được tao nên từ chính sự hòa hợp nơi tâm hồn của cặp vợ chồng nhà văn. Chắc có lẽ vì điều này đã làm cho một cuốn sách mang nhiều triết lý nhân sinh như “Nếu biết trăm năm là hữu hạn” Không những không khô khan mà lại còn rất giàu tình cảm và dễ đi vào lòng người đến vậy. Chỉ là hơn 40 bài tản văn thôi nhưng “Nếu biết trăm năm là hữu hạn” thật sự là những trang viết chất lượng, là bài học kinh nghiệm quý giá được đúc kết sau hơn mấy mươi năm kinh nghiệm của một cặp vợ chồng cộng lại. Cuốn sách cứ như là một người bạn lớn đầy bao dung và vững chãi, có khi lai như một nhà tâm lý học đầy thấu hiểu và nhiều lúc lại chính là những trăn trở nội tai bên trong con người tôi được tác giả nhìn thấu một cách tận tường, sâu sắc.

Trong bài “Ngược dòng nước mắt” là những dòng viết khiến tôi và chắc hẳn bạn cũng sẽ không khỏi giật mình như tôi vì đôi lần đã vô tâm, hời hợt với cha mẹ của mình. Chúng ta luôn đòi hỏi, trách khứ rằng: “Tại sao ba mẹ không hiểu ta?” Nhưng có bao giờ ta tự hỏi rằng: “mình có thật sự thấu được nỗi lòng của cha mẹ không?” Phải chăng vì chúng ta biết rằng tình yêu ba mẹ dành cho ta là vô điều kiện, là cho đi mà không cần đáp lại. Phải chăng chúng ta nghĩ rằng sẽ còn có thể gặp mặt, còn nhiều cơ hội để yêu thương và còn nhiều thời gian cho một lời xin lỗi. Chúng ta có bao giờ nghĩ được chỉ cần một lần chia tay có thể sẽ không bao giờ còn gặp nữa, một tiếng thở dài biết đâu lại là hơi thở cuối cùng trong cuộc đời… Hãy thử một lần quan sát “Mỗi khi vào nhà sách, chúng ta lại thấy xếp hàng dài trên giá những cuốn sách dành cho các bậc cha mẹ. Từ “Tâm lý trẻ con tuổi chập chững” cho đến “Bảy bí mật của tuổi mới lớn”, “Teen cần gì ở cha mẹ?”… Nhìn vào đó để thấy rằng lứa tuổi em ngày nay đang được cha mẹ tìm hiểu hoặc cố gằng để tìm hiểu một cách kỹ càng. Vì yêu thương và để yêu thương đúng cách. Nhưng còn những người con thì sao? Có bao giờ em nghĩ đến việc tìm đọc những cuốn sách viết về tâm lý của người làm cha mẹ? Ai cũng biết làm cha mẹ là một việc khó khăn. Vậy phải chăng chúng ta đã, đang làm con quá dễ dàng, bằng cách biện hộ “rằng thì là” nước mắt chảy xuôi, nên không cần quan tâm đến nỗi lòng của cha mẹ?”

Đọc bài “Những mảnh ký ức cuối năm”…, ta có thể sẽ rưng rưng nghĩ đến “mùi của cọng rau ngày còn bé”, trò thổi bong bóng làm từ bông bụp đỏ, những trái ổi xanh, hoặc dư vị của một mối tình thơ dại… – những ký ức mà thường chỉ vào mấy ngày cuối năm ta mới có thời gian hồi nhớ, nhưng dăm khoảnh khắc ngắn ngủi ấy cũng đủ xoa dịu ta, chữa lành những vết thương cho ta, giúp ta đủ sức mạnh bước tiếp trên đường đời.

 

Đọc bài “Ta đã làm chi đời ta?” để nhận ra rằng “ Sống một cuộc đời cũng giống như vẽ một bức tranh vậy. Nếu bạn nghĩ thật lâu về điều mình muốn vẽ, nếu bạn dự tính được càng nhiều màu sắc mà bạn muốn thể hiện, nếu bạn càng chắc chắn về chất liệu mà bạn sử dụng, thì bức tranh trong thực tế càng giống bạn tưởng tượng. Bằng không, có thể nó sẽ là những màu mà người khác thích, là bức tranh mà người khác ưng ý chứ không phải bạn.”

Dường như có một thứ gì đó gọi là “ ý niệm thiền học” như một dòng chảy xuyên suốt cuốn sách khiến từng câu từng chữ nhẹ nhàng đi vào lòng tôi và để lại nhiều giá trị nhân văn. Khi gấp trang cuối của cuốn sách này lại, có thể bạn sẽ đơn giản là mỉm cười, hít một hơi thật sâu, cảm nhận sự bình an lan tỏa trong tâm hồn mình. Còn riêng tôi, tôi đã khóc, bởi cuốn sách đã gieo mầm cho tôi, để tôi có thể dũng cảm làm một cuộc tái sinh, âm thầm nhưng vô cùng sâu sắc…

 Trong “cơn bão thị trường sách” làm khủng hoảng niềm tin bởi sách thiếu chất lượng, sách giả được xuất bản tràn lan như hiện nay thì “Nếu biết trăm năm là hữu hạn” thật sự là một cuốn sách đáng giá, là một điểm tựa tinh thần trong những lúc ta cảm thấy chênh vênh, giúp ta vững lòng hơn trước những va vấp không tránh khỏi của cuộc đời. Để rồi khi khép dần trang sách, bạn sẽ nhận ra rằng, cuộc sống này ai cũng có những nỗi lo toan, ai cũng cần được cảm thông và mọi người trên đời đều xứng đáng được yêu thương.

 

Mỗi người sẽ có một lựa chọn khác nhau về thể loại sách vì nhiều lý do: hoàn cảnh sống, môi trường làm việc, sở thích và quan điểm cá nhân… Nhưng sẽ không bao giờ là lãng phí thời gian nếu bạn chọn đọc cuốn sách “Nếu biết trăm năm là hữu hạn”. Tin tôi đi, chắc chắn rằng bạn sẽ phải cảm ơn tôi vì lời đề nghị thú vị và chân thành này đó!

Sau cùng tôi muốn gửi đến các bạn một thông điệp rằng “Nếu biết trăm năm là hữu hạn,thì cớ gì ta không sống cho thật sâu!”

-Nga Stronger-

Soạn bài Khái quát Văn học Việt Nam từ CMT8 đến hết thế kỉ XX – ngữ văn lớp 12

Soạn bài Khái quát Văn học Việt Nam từ CMT8 đến hết thế kỉ XX – ngữ văn lớp 12

Bài làm

I. KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 ĐẾN NĂM 1975

1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử xã hội

– Đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã góp phần tạo nên một nền văn học thông nhất :

+ khuynh hướng tư tưởng
+ tổ chức
+ quan niệm nhà văn : nhà văn – chiến sĩ.

– Cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc → một nền văn học hình thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh lâu dài và vô cùng ác liệt.

– Nền kinh tế còn nghèo và chậm phát triển. Còn nhiều hạn chế về giao lưu văn hoá.

2. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu

a. Chặng đường từ năm 1945 đến 1954

– Chủ đề : ca ngợi tổ quốc, kêu gọi tinh thần đoàn kết, cổ vũ phong trào Nam tiến, biểu gương những tấm gương vì nước quên thân.

– Từ cuối năm 1946 vh tập trung phản ánh cuộc kc chống thực dân Pháp. Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến, hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân, thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.

 

– Những thành tựu :

+ Truyện ngắn và kí là những thể loại mở đầu cho văn xuôi chặng đường kháng chiến : Một lần tới thủ đô; Đôi mắt; Nhật kí ở rừng; Làng …
+ Thơ ca : đạt nhiều thành tựu xuất sắc, tiêu biểu những tác phẩm của HCM, HC, QD, TH …
+ Kịch : Học phi , Nguyễn Huy Tưởng …

b. Chặng đường từ 1955 đến 1964 :

– Văn học phản ánh nhiều mặt của cuộc sống, tiếp tục viết về đề tài kc chống Pháp, ca ngợi cuộc sống mới, con người mới.

– Thành tựu :

+ Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, phạm vi của hiện thực đời sống .

Vd : Sống mãi với thủ đô – Nguyễn Huy Tưởng
Vỡ bờ – Nguyễn Đình Thi

+ Thơ ca phát triển mạnh mẽ
+ Kich cũng phát triển

Vd : Ngọn lửa – Nguyễn Vũ
Nổi gió – Đào Hồng Cẩm

c. Chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975:

– Viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ : đề cao tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

– Thành tựu:

+ Văn xuôi : tập trung phản ánh cuộc sống chiến đấu lao động, khắc hoạ hình ảnh con người VN anh dũng.

Vd : Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi

Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành

* Kí cũng phát triển mạnh : kí của Nguyễn Tuân
* Truyện ngắn : Đỗ Chu; Vũ Thị Thường
* Nhiều tác giả nổi lên nhờ những cuốn tiểu thuyết

 

+ Thơ đạt nhiều thành tựu xuất sắc, là một bước tiến của thơ Việt Nam hiện đại với những tên tuổi: Tố Hữu; Chế Lan Viên; Phạm Tiến Duật ….
+ Kịch có nhiều thành tựu đáng ghi nhận

d. Văn học vùng địch tạm chiếm:(sgk )

3. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 :

– Nền văn học chủ yếu vận đông theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.

– Nền văn học hướng về đại chúng .

– Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

II. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VĂN HỌC VN TỪ NĂM 1975 ĐẾN HẾT THẾ KỈ XX

1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội và văn hoá

– Với chiến thắng mùa xuân năm 1975 : đất nước mở ra một thời kì mới: độc lập tự do và thống nhất đất nước.

– Từ năm 1986 với công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng, nước ta có những bước chuyển mới → nền văn học đổi mới như môt quy luật.

2. Những chuyển biến và một số thành tựu ban đầu

– Từ năm 1975 thơ không tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn như ở giai đoạn trước. Tuy nhiên vẫn có những tác phẩm ít nhiều tạo được sự chú ý :

+ Chế Lan Viên với Di cảo thơ.
+ Những cây bút của văn học thời kì chống Mĩ : XQ, TT , HT …
+ Những cây bút sau 75 : Phùng khắc Bắc, Trần anh Thái …

 

– Sau 1975 văn xuôi có nhiều khởi sắc,nhất là từ đại hội lần VI văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới:

+ Phóng sự
+ Truyện ngắn
+ Tiểu thuyết
+ Kí

– Kịch sau 1975 phát triển mạnh mẽ với Lưu Quang Vũ, Xuân Trình.
– Lí luận văn học, nghiên cứu phê bình cũng có sự đổi mới.

Từ 1975 nhất là từ 1986 văn học Việt Nam từng bước chuyển sang giai đoạn đổi mới. Văn học vận động theo hướng dân chủ hoá mang tính nhân bản và nhân văn sâu sắc.

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu

Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu

Bài làm

Nhắc đến Tố Hữu là ta đang nói về một chiến sĩ cách mạng, một nhà thơ đậm chất trữ tình gắn liền với từng chặng đường lịch sử dân tộc. Thơ của ông luôn đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính hiện đại, trong đó, tiêu biểu phải kể đến bài thơ “” – được coi là đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Được sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ, bà thơ là những kí ức một thời kháng chiến gian khổ và hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân và mảnh đất Việt Bắc. Đoạn trích đã làm hiện lên một bức tranh tứ bình của núi rừng Việt Bắc đẹp nên thơ, trữ tình.

” Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Mùa đông Việt Bắc bạt ngàn một sắc xanh của cây cỏ. Nổi bật trên nền xanh ấy, những bông hoa chuối nở bập bùng như ánh lửa đỏ làm sưởi ấm cả ngày đông lạnh lẽo, hoang vu. Ngước nhìn lên đèo, ta thấy nắng lan tỏa rộng khắp. Đôi mắt của người chiến sĩ cách mạng như chú tâm vào ánh sáng từ con dao gài thắt lưng của người lao động. Có vẻ như ánh nắng đã được phản chiếu qua lưỡi dao tạo thành một tia chói chang. Nó tạo cảm giác như con người đang làm chủ thiên nhiên, núi rừng.

 

Đông qua xuân tới, hoa mơ nở trắng xóa che lấp đi cả sắc xanh vốn là màu chủ đạo của mùa đông vừa qua:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Giữa nền hoa trắng, nổi bật lên hình ảnh một người dân cần mẫn ngồi đan nón khiến cho không gian trở nên yên bình và êm đềm đến lạ thường. Và cuộc sống thực sự sinh sôi, nảy nở khi hạ đến:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Tiếng ve kêu râm ran dường như kéo cả ánh nắng vàng bao trùm rừng phách. Nhưng ta cũng có thể hiểu là rừng phách đã chuyển sang sắc vàng rực rỡ đón chào mùa hạ tới. Người con gái Việt Bắc vẫn đang cặm cụi, chăm chỉ hái măng. Tố Hữu gọi người con gái ấy là “cô em gái” – một cách gọi trìu mến, thân thương xiết bao! Có vẻ như yêu thiên nhiên Việt Bắc, ông yêu cả những con người cần mẫn lao động nơi đây.

Thu đến đem lại cho người đọc một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên với ánh trăng dịu hiền lan tỏa khắp muôn nơi:

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Đây không chỉ đơn thuần là ánh trăng nữa, mà là ánh sáng của niềm tin, của hi vọng và một tương lai tốt đẹp cho đất nước, dân tộc. Giữa cảnh sắc nên thơ và bình dị ấy, tiếng hát của con người cũng trở nên thân thương và bình dị hơn bao giờ hết. Đó là tiếng hát của kẻ đi hay là của người ở lại ? Không ai rõ điều đó, nhưng ta tin chắc rằng đó là tiếng hát của tình yêu, của lòng thủy chung, nhớ thương da diết. Cảnh và người Việt Bắc đáng quý đáng nhớ đến vậy đấy!

 

Chỉ bằng tám câu thơ, bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đã được tái hiện đầy đủ với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông. Mỗi mùa mang một nét đẹp riêng và tạo một ấn tượng riêng trong lòng người đọc. Phải là một người gắn bó tình cảm tha thiết với Việt Bắc, Tố Hữu mới có thể miêu tả được hết cái hồn của Việt Bắc qua từng con chữ như vậy.

Nghị luận xã hội về tác dụng của việc đọc sách

Nghị luận xã hội về tác dụng của việc đọc sách

Bài làm

Sách là kho tàng tri thức vô tận của nhân loại. Là kết tinh từ ngàn đời, sách đem lại những kiến thức mới lạ về những vùng đất ta chưa từng đặt chân tới, những điều ta không hề biết đến và là nguồn giải trí vô cùng bổ ích và lí thú. Vì vậy, đọc sách đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con người.

Sách được con người sử dụng từ lâu đời như một công cụ để ghi chép, nhắc nhở. Mỗi một cuốn sách là một nền tri thức khác nhau: “Bạn càng đọc nhiều, bạn càng biết nhiều. Bạn càng học nhiều, bạn càng đi nhiều”. Sách lịch sử cho ta biết lịch sử hình thành và phát triển của loài người, sách sinh học mở ra một chân trời về thế giới sinh vật muôn loài, sách văn hoạc đem đến những ý nghĩa, bài học cao cả về cuộc sống xung quanh … Đọc sách là một nhu cầu thiết yếu của con người. Đó là một hình thức giải trí có chiều sâu, nâng tầm trí tuệ con người. Đọc sách thường đi liền với suy ngẫm, tìm tòi, khám phá, … khơi dậy đam mê của mỗi người trong từng lĩnh vực khác nhau. Đọc sách trở thành thói quen của nhiều người, văn hóa của nhiều cộng đồng.

Công nghệ ngày một phát triển, con người cũng trở nên dễ dàng trong việc tiếp cận tri thức. Bên cạnh việc đọc sách, chúng ta có thể sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như phim ảnh, truyền hình, mạng … Uw điểm của việc sử dụng công nghệ để đó chính là việc thu thập thông thông tin trở nên nhanh chóng và thuận tiện. Bởi vậy văn hóa đọc cũng đang đứng trước những nguy cơ và thách thức bị lấn át do sự thay đổi thói quen của một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ. Dù vậy, việc đọc sách vẫn có tầm ảnh hưởng lớn tới con người. Các thông tin thu thập được trên báo đài … tuy nhanh gọn nhưng thường thiếu sót và đôi khi là sai sót trong khi sách lại là sự tổng hợp của một quá trình lâu dài. Sách có một hệ thống kiến thức đầy đủ mang lại khối lượng thông tin cần thiết cho con người thu nạp.

 

Đọc sách là cần thiết nhưng nhất thiết phải chọn cho mình những loại sách có gía trị, làm giàu tri thức và hoàn thiện nhân cách: “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được chọn lựa; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều”.Hiện nay, có rất nhiều loại sách được bày bán trong các nhà sách, cửa hàng sách … Nếu ta không đọc sách một cách có chọn lọc sẽ dễ bị sa đà vào những cuốn sách không cần thiết hoặc vô bổ. Thậm chí, có những cuốn sách mang nội dung tiêu cực, nếu không không được xem xét cẩn thận có thể làm lệch lạc tư duy, nhận thức của bản thân.

Sách là nguồn tri thức vô tận của nhân loại. Để rèn luyện bản thân có thói quen đọc sách không phải chuyện ngày một, ngày hai nhưng nếu kiên trì, đó sẽ là một thói quen tốt mang lại nhiều lợi ích cho bản thân.

Nghị luận xã hội về thói vô trách nhiệm

Nghị luận xã hội về thói vô trách nhiệm

Bài làm

Cuộc sống phát triển khiến cho con người bận rộn và vội vàng hơn. Và dường như, vì mải mê với công việc mà tình cảm giữa con người với con người cũng trở nên mờ nhạt. Đặc biệt, con người càng ngày thờ ơ, dửng dưng, vô trách nhiệm với những gì diễn ra xung quanh.

Vô trách nhiệm thể hiện qua những hành vi vô ý thức, thiếu đạo của con người với cuộc sống xung quanh. Tuy xuất phát từ hành động của mỗi cá nhân nhưng thói vô trách nhiệm lại có tác động xấu không chỉ với bản thân. Bố mẹ thiếu trách nhiệm trong việc giáo dục con cái sẽ làm cho con cái trở nên hư hỏng, không được hoàn thiện về mặt nhân cách và có thể sa đà vào các tệ nạn xã hội. Nhân viên cấp dưới không hoàn thành công việc đúng thời hạn hoặc làm công việc một cách sơ sài, bất cẩn sẽ làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống bộ máy trong công ty. “Sai một li đi một dặm” – một hành vi vô trách nhiệm nhỏ có thể có ảnh hưởng lớn.

Trong khi đó, tinh thần trách nhiệm được xây dựng dựa trên những mối quan hệ giữa con người với đời sống xã hội. Lối sống có trách nhiệm sẽ giúp cho chúng ta có một cuộc sống lành mạnh, sống có mục đích, có ý nghĩa hơn. Tinh thần trách nhiệm gây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người đồng thời là cơ sở để góp phần thúc đẩy xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Một người có tinh thần trách nhiệm sẽ luôn được mọi người yêu quý và tín nhiệm. Công việc luôn được thăng tiến, tình cảm gia đình và người thân càng trở nên khăn khít.

 

Còn là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta có trách nhiệm học tập chăm chỉ, lễ phép với thày cô, nghe lời bố mẹ. Rèn luyện bản thân sống có trách nhiệm là cần thiết để có được một cuộc sống tốt đẹp hơn trong tương lai.

Phân tích bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm

Bài làm

Đất nước – một khái niệm tưởng chừng như mơ hồ với nhiều người nhưng bỗng trở nên cụ thể hơn bao giờ hết qua tác phẩm cùng tên của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, “Đất nước” là những trải nghiệm, suy ngẫm của tác giả về vai trò và những hi sinh của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình:

“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa

Ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.”

Đất nước hiển hiện ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước ở trong những câu chuyện cổ tích của mẹ, miếng trầu của bà, … Đất hiện lên bình dị, thân thuộc và thấm được tình cảm gia đình:

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Đất nước còn là thành quả của nhân dân lao động:

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó .

Theo quan điểm của nhà thơ, “Đất nước” chính là:

Đất là nơi anh đến trường

 

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm .

Cụm từ “Đất nước” được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm tách bạch để giả thích nghĩa của từng từ một cách cặn kẽ, khúc chiết. Đất nước không chỉ thấm được tình cảm gia đình, mà còn nồng ấm tình cảm lứa đôi. Nhà thơ còn khéo léo sử dụng hình ảnh “chiếc khăn” – vốn rất quen thuộc trong các câu ca dao – để giải thích. Đất nước mang trong mình những bài ca dao tâm tình của đôi lứa yêu nhau.

Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Con cá ngư ông móng nước biển khơi

Hình ảnh đất nước bỗng trở nên tráng lệ và kì vĩ. Trải qua bao thăng trầm, qua bao thế hệ, đất nước vẫn mãi là nơi “dân mình đoàn tụ” là nơi để ta nhớ về và nhắc nhở nhau nghe:

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Giọng thơ trầm ngâm, như lời dặn dò của thế hệ đi trước gửi gắm cho thế hệ sau.

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Đất nước là máu thịt con người. Mỡi người trong chúng ta sinh ra và lớn lên đều mang trong mình một phần của đất nước. Vì vậy ai cũng có nghĩa vụ và trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ nó để: “Làm nên đất nước muôn đời”.

 

Từ đó, nhà thơ khẳng định: Nhân dân chính là người đã góp phần tạo nên Đất nước:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta .

Trong lịch sử giữ và bảo vệ đất nước, nhiều người đã hi sinh thầm lặng:

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất nước

Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn cốt lõi của cả bài thơ:

Đất nước này là Đất nước nhân dân

Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Tình yêu quê hương đất nước dường như đã được nhà thơ gửi trọn vào tác phẩm. “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ giúp ta thêm yêu, trân trọng văn hóa, bản sắc quê hương mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam.

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh; nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ. Thơ của ông vừa hồn nhiên, vừa tinh tế mang vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng đậm chất lãng mạn. Ông có nhiều bài thơ nổi tiếng, và trong số đó không thể nào không nhắc tới bài thơ “Tây Tiến” của ông. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”.

Tác giả Quang Dũng đã lí giải hoàn cảnh sáng tác của bài thơ “Tây Tiến” để người đọc có thể hiểu rõ hơn về bài thơ. Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào, và đánh tiêu hao sinh lực địch ở Thượng Lào và miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng: từ Mai Châu, Châu Mộc sang Sầm Nưa rồi vòng về phía tây tỉnh Thanh Hóa. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên, sinh viên Hà Nội. Họ chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn lạc quan yêu đời. Quang Dũng làm đại đội trưởng ở đơn vị đó một thời gian rồi chuyển vào đơn vị khác năm 1948. Xa đơn vị cũ không lâu, tại làng Phù Lưu Chanh, vì nhớ anh em, đồng đội nên Quang Dũng đã sáng tác ra bài thơ này. Bài thơ lúc đầu có tên gọi là “Nhớ Tây Tiến” về sau tác giả bỏ chữ “nhớ” chỉ còn là “Tây Tiến”, bởi chữ Tây Tiến đã bao hàm cả nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến.

Mạch cảm xúc và tâm trạng là sợi dây liên kết cả bốn đoạn của bài thơ. Bài thơ được viết trong nỗi nhớ trào dâng, trong những kỉ niệm đầy ắp về đoàn quân Tây Tiến, cùng với cảnh trí miền tây với thiên nhiên thơ mộng. Nhà thơ như được sống trong không khí của những kí ức và kỉ niệm hào hùng. Tài hoa của hồn thơ Quang Dũng đã làm cho những kí ức và kỉ niệm của mình như được sống cùng với người đọc.

Ở đoạn thơ đầu tiên, tác giả gợi nhớ về hình ảnh những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và cảnh trí hoang sơ, hùng vĩ của vùng đất phía tây của Tổ quốc. Khơi nguồn mạch cảm xúc cho bài thơ chính là nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết về đồng đội, về những năm tháng không thể nào quên phủ khắp bài thơ

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ dường như không thể kìm nén nổi, “chủ thể” nhớ phải thốt lên thành tiếng gọi. Và nỗi nhớ như được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng từ láy “chơi vơi” rất gợi cảm và tạo cảm xúc cho những dòng thơ tiếp nối với những cảnh núi cao, vực thẳm, rừng sâu xuất hiện. Theo dòng hoài niệm của nhà thơ, bức tranh thiên nhiên Tây Bắc dần được hiện ra một cách hết sức sống động.

 

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Sài Khao, Mường Lát là tên những đất, tên làng mà đoàn quân Tây Tiến đã hành quân qua. Tác giả sử dụng từ “sương lấp” để gợi tả một vùng đất hoang sơ, quanh năm bị sương mù bao phủ. Chỉ với ba chữ “đoàn quân mỏi” thôi đã đủ để gợi lên hình ảnh những người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân đầy gian khổ, dãi dầu, đây chính là một cảm hứng hiện thực của nhà văn. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh rất đặc biệt “hoa về trong đêm hơi”, đó  là hoa của thiên nhiên hay con người? Chỉ biết rằng nó gợi một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả, đẩy lùi nỗi nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân. Điều này xuất phát từ cảm hứng lãng mạn qua con mắt của nhà thơ.

      Bốn câu thơ được coi là tuyệt bút của nhà thơ, là một bằng chứng về thi trung hữu họa:

“Dốc lên khúc khỉu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Người đọc có thể hình dung ra một bức tranh kì vĩ với những cung bậc cảm xúc khác nhau qua những câu thơ trên. Đó là khung cảnh rất hoang vu và hiểm trở, là nơi hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Sự hoang vu và hiểm trở ấy được diễn tả bằng những từ ngữ rất giàu sức tạo hình như: khúc khỉu, thăm thẳm, heo hút, cồn mây, súng ngửi trời. Từ láy khúc khỉu, thăm thẳm, heo hút diễn tả sự hiểm trở với những con đường quanh co, gập ghềnh, đứt đoạn của núi rừng Tây Bắc. Câu thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, như bị bẻ gãy làm đôi, rất dứt khoát, mạnh mẽ làm cho người đọc như thấy rất rõ chiều cao của núi, độ cao của dốc và con tim không khỏi hồi hộp vì lo sợ cho những bước chân của người lính. Nếu như ở câu thơ trên, diễn tả cái nhìn lên, nhìn xuống thì câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại diễn tả cái nhìn ngang. Cái nhìn này mang đến cho người đọc một cảm giác tận hưởng, nhẹ nhàng, bình lặng, như giải tỏa được nỗi lo sợ cho những bước chân của người lính. Câu thơ gồm toàn thanh bằng đã góp phần tích cực vào việc diễn tả cái cảm giác này.

Quang Dũng đã sử dụng từ ngữ vô cùng táo bạo “súng ngửi trời”, vừa diễn tả được độ cao, cái hiểm trở mà người lính phải trải qua, lại vừa bộc lộ tính hóm hỉnh của người lính ngay cả khi gian khổ, khó khăn nhất. Núi cao tưởng chừng như ngập trên mây, mây nổi lên từng cồn heo hút. Câu thơ giúp người đọc có thể nhận thấy người lính đang ở vị trí nào đó rất cao trên đỉnh đèo nên mới có cảm giác như súng trạm được đến cả bầu trời. Tài năng của Quang Dũng đã được bộc lộ rất rõ qua bốn câu thơ trên.

 

Núi rừng Tây Bắc đâu chỉ có núi cao hiểm trở, ở nơi đây còn có thác gầm, cọp dữ

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã phát huy trí tưởng tượng, sử dụng nhiều yếu tố cường điệu, phóng đại, những thủ pháp đối lập để tao nên ấn tượng mạnh mẽ về sự hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc.

Hình ảnh thiên nhiên đã làm nền cho hình ảnh con người xuất hiện. Trong cuộc hành quân vất vả, người lính Tây Tiến hiện lên không tránh khỏi sự vất vả “đoàn quân mỏi”. Quang Dũng đã ghi lại hiện thực đó. Thậm chí không giấu giếm được sự hi sinh

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Người lính Tây Tiến coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cái bi đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng. Trên chặng đường hành quân, người lính Tây Tiến ở lại một bản làng và bữa cơm đầu mùa tỏa hương nếp mới đã xua tan nhọc nhằn đời lính và đưa họ về cuộc sống đời thường

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Bằng bút pháp lãng mạn, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc và hình ảnh người lính trong cuộc hành quân đầy gian khổ.

Ở đoạn thứ hai, nhà thơ đã nhớ về những kỉ niệm đẹp của tình quân dân và cảnh sông núi miền tây đầy thơ mộng của Tổ quốc. Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng đã đẩy lùi cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội mà mở ra một thế giới khác vùng Tây Bắc. đó là cảnh đêm liên hoan văn nghệ, cảnh sông nước mênh mang trong buổi chiều sương. Khi màn đêm buông xuống cũng chính là lúc buổi liên hoan văn nghệ bắt đầu “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”. Hình ảnh em trong đoạn thơ chính là trung tâm là linh hồn của buổi văn nghệ

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Đó là cô gái dân tộc dịu dàng, duyên dáng trong bộ trang phục của dân tộc, trong vũ điệu của dân tộc. Tất cả đã tạo nên vẻ thu hút của người con gái đối với những người lính Tây Tiến.

 

Nếu đêm liên hoan văn nghệ mang đến cho người đọc không khí say mê, ngây ngất, thì cảnh sông nước vùng Tây bắc gợi lên cảm giác mênh mông, huyền ảo

“Người đi Châu Mộc chiều hôm ấy

Có thấy hồn ai nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Nhà thơ không tả mà chỉ gợi, vậy mà cảnh vật hiện lên vẫn rất thơ mộng. Trên dòng sông ấy là một cô gái duyên dáng, uyển chuyển, khéo léo trên chiếc thuyền độc mộc, giữa dòng nước lũ. Hình ảnh đó tạo nên một vẻ đẹp lãng mạn cho bức tranh thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Ngòi bút tài hoa của tác giả được thể hiện tập trung ở đoạn này, chất nhạc hòa quyện chất thơ. Bằng bút pháp lãng mạn,tác giả đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên thơ mộng, duyên dáng, mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc.

Đến với đoạn thơ thứ ba, nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa chân dung của người lính Tây Tiến. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên vừa lãng mạn, vừa bi tráng vừa kiêu hùng. Bằng bút pháp lãng mạn, nhà thơ đã khắc họa thành công bức tượng đài bất tử của người lính Tây Tiến. Nhớ đến Tây Tiến, tác giả nhớ đến những tháng ngày đẹp đẽ, hào hùng, say mê. Xa Tây Tiến nhưng tâm hồn, tình cảm của tác giả vẫn gửi gắm ở nơi ấy, những nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

“Tây Tiến” là một bài thơ toàn bích. Bài thơ đã tái hiện được vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng của đoàn quân Tây Tiến. Qua bài thơ này, ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với đoàn quân Tây Tiến của tác giả. Bài thơ kết tinh nhiều sáng tạo nghệ thuật của tác giả: bút pháp tạo hình đa dạng, ngôn ngữ vừa quen thuộc vừa độc đáo,vừa có nét cổ kính vừa có nét mới lạ, bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng.

Soạn bài Ôn tập nghị luận về một tư tưởng đạo lý – ngữ văn lớp 12

Soạn bài Ôn tập nghị luận về một tư tưởng đạo lý – ngữ văn lớp 12

Bài làm

I. TÌM HIỂU CHUNG

1. Khái niệm

– Nghị luận về một tư tưởng đạo lý là quá trình kết hợp những thao tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng, đạo lí trong cuộc đời
– Tư tưởng đạo lí trong cuộc đời bao gồm:
+ Lí tưởng (lẽ sống).
+ Cách sống.
+ Hoạt động sống.
+ Mối quan hệ giữa con người với con người (cha mẹ, vợ chồng, anh em,và những người thân thuộc khác) ở ngoài xã hội có các quan hệ trên dưới, đơn vị, tình làng nghĩa xóm, thầy trò, bạn bè.…

2. Yêu cầu làm bài văn về về tư tưởng đạo lí

a. Hiểu đựoc vấn đề cần nghị luận, ta phải qua bước phân tích, giải đề, xác định được vấn đề, với đề trên đây ta thực hiện.

– Hiểu được vấn đề nghị luận là gì?

+ Ví dụ: “Sống đẹp là thế nào hỡi bạn”
+ Muốn tìm thấy các vấn đề cần nghị luận, ta phải qua các bước phân tích, giải đề xác định được vấn đề, với đề trên đây ta thực hiện.

– Thế nào là sống đẹp?

+ Sống có lí tưởng đúng đắn, cao cả, phù hợp với thời đại, xác định vai trò trách nhiệm.
+ Có đời sống tình cảm đúng mực, phong phú và hài hoà.
+ Có hành động đúng đắn.

Suy ra: Sống đẹp là sống có lí tưởng đúng đắn, cao cả, cá nhân xác định được vai trò trách nhiệm với cuộc sống, có đời sống tình cảm hài hoà phong phú, có hành động đúng đắn. Câu thơ nêu lên lí tưởng và hành động và hướng con người tới hành động để nâng cao giá trị, phẩm chất của con người.

 

b. Từ vấn đề nghị luận xác định người viết tiếp tục phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí bàn bạc, so sánh bãi bỏnghĩa là áp dụng nhiều thao tác lập luận.

c. Phải biết rút ra ý nghĩa vấn đề.

d. Yêu cầu vô cùng quan trọng là người thực hiện nghị luận phải sống có lí tưởng và đạo lí.

3. Cách làm bài nghị luận

a. Bố cục: Bài nghị luận về tư tưởng đậo lí cũng như các bài văn nghị luận khác gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.

b. Các bước tiến hành ở phần thân bài: phụ thuộc vào yêu cầu của thao tác những vấn đề chung nhất.

III. LUYỆN TẬP

Câu 1: Vấn đề mà Nê -ru cố Tổng thống ấn Độ nêu ra là văn hoá và những biểu hiện ở con người Dựa vào đây ta đặt tên cho văn bản là:

– Văn hoá con người.

– Tác giả sử dụng các thao tác lập luận.

+ Giải thích + chứng minh.
+ Phân tích + bình luận.
+ Đoạn từ đầu đến “hạn chế về trí tuệ và văn hoá” Giải thích + khẳng định vấn đề (chứng minh).
+ Những đoạn còn lại là thao tác bình luận.
+ Cách diễn đạt rõ ràng, giàu hình ảnh.

Câu 2: Sau khi vào đề bài viết cần có các ý:

* Hiểu câu nói ấy như thế nào?

Giải thích khái niệm:
– Tại sao lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, vạch phương hướng cho cuộc sống của thanh niên tavà nó thể hiện như thế nào?
– Suy nghĩ.

 

+ Vấn đề cần nghị luận là đề cao lí tưởng sống của con người và khẩng định nó là yếu tố quan trọng làm nên cuộc sống con người.
+ Khẳng định: đúng.
+ Mở rộng bàn bạc.

– Làm thế nào để sống có lí tưởng?
– Người sống không có lí tưởng thì hậu quả sẽ ra sao?
– Lí tưởng cuả thanh niên ta hiện nay là gì? Ý nghĩa của lời Nê-ru.
– Đối với thanh niên ngày nay?
– Đối với con đường phấn đấu lí tưởng, thanh niên cần phải như thế nào?

Những điều kỳ diệu khi mỗi người biết chọn cho mình một phong cách riêng biệt trong cuộc sống

Những điều kỳ diệu khi mỗi người biết chọn cho mình một phong cách riêng biệt trong cuộc sống

Bài làm

Phong cách độc đáo và riêng biệt của mỗi người là một điều kỳ diệu. Bởi lẽ, với phong cách riêng ta đang sống thật với chính mình, theo đuổi những đam mê, sở thích của bản thân rồi bộc lộ như những đóa hoa nở rộ trước cuộc đời. Không chỉ thế, ta biết cách giữ vững lập trường của mình, không chạy theo số đông và trộn lẫn với người khác. Nhà thiên văn học, vật lý học Ga-li-lê đã can đảm chống lại những quan niệm sai lệch thời trước, bảo vệ thuyết nhật tâm với câu nói nổi tiếng “Dù sao Trái Đất vẫn quay”. Thử hỏi, nếu không có phong cách riêng độc đáo, lập trường vững vàng của Ga-li-lê thì nền văn học hiện đại ngày nay sẽ đi đến đâu? Thử hình dung một người sống mờ nhạt, không có quan điểm, chính kiến, không có nét riêng sẽ trở nên vô vị, nhàm chán thế nào. Nhưng nếu có một phong cách riêng, ta có thể để lại ấn tượng trong lòng mọi người. Điều độc đáo từ các cá nhân sẽ làm cho cuộc đời, xã hội trở nên phong phú, đa dạng, tràn ngập sắc hương. Hơn nữa, một khi sở hữu một cách nghĩ, một cách làm sáng tạo, mỗi người sẽ đóng góp tích cực vào cuộc đời chung. Bạn đã tạo cho mình một phong cách riêng như thế nào?

 

Soạn bài Vợ chồng A Phủ – ngữ văn lớp 12

Soạn bài Vợ chồng A Phủ – ngữ văn lớp 12

Bài làm

I. GIỚI THIỆU CHUNG

– Tô Hoài là nhà văn có nhiều đóng góp cho văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sau Cách mạng tháng Tám, ông rất thành công với mảng đề tài viết về miền núi.

– “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn tiêu biểu của văn xuôi chống Pháp về đề tài miền núi. Truyện là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc của nhà văn (1952).

– Thông qua số phận của Mị và A Phủ, tác giả thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng con người và ngợi ca ý nghĩa nhân đạo của sự nghiệp giải phóng con người thoát khỏi tối tăm và áp bức.

II. NỘI DUNG CHÍNH

Chú ý phân tích tác phẩm ở các khía cạnh sau:

1. Tác phẩm đã miêu tả được những thân phận tôi đòi, nô lệ dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.

a) Thông qua cuộc đời nhân vật Mị :

– Mị là nạn nhân của sự vùi dập về thể xác: (bị bóc lột sức lao động thậm tệ; bị đánh đập, bị trói và bỏ đói bất cứ lúc nào…)
– Mị là nạn nhân của sự vùi dập về tinh thần : (căn buồng Mị ở tối tăm, chỉ thông ra thế giới bên ngoài qua một cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay”; Mị sống “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”…)

b) Thông qua cuộc đời A Phủ:

– Là chàng trai khỏe mạnh, giỏi giang, con gái trong làng nhiều người mê.
– Vì không chịu được sự bất công cũng như thái độ hống hách, cậy quyền thế của A Sử – con trai thống lý Pá Tra, A Phủ đã đánh A Sử. A Phủ bị bắt, phải vay nhà thống lý một trăm đồng bạc hoa xòe để nộp vạ cho làng và trở thành người ở trừ nợ.
– Vì để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị thống lý Pá Tra trói đứng và bỏ đói đến gần chết.
-> Thân phận con người không bằng con vật.

 

2. Tác phẩm miêu tả sức sống tiềm tàng và quá trình gíác ngộ cách mạng của người dân miền núi:

a) Qua nhân vật Mị:

– Dù bị áp chế về cả thể xác và tinh thần, tâm hồn Mị vẫn không hoàn toàn giá lạnh. Bên trong cái dáng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, Tô Hoài vẫn nhận ra một sức sống tiềm tàng trong con người Mị mà khi có đủ điều kiện nó sẽ vùng lên để tìm lại cuộc sống đích thực cho mình.
– Sức sống của nhân vật Mị được miêu tả trực tiếp trong tác phẩm.

+ Trong lần định ăn nắm lá ngón tự tử : Mị định chết vì ý thức được cuộc sống tủi nhục, vô nghĩa của mình.
+ Trong đêm tình mùa xuân: Điều kiện có tác dụng trực tiếp cho việc biểu hiện sức sống của Mị là không gian của đêm tình mùa xuân, hơi rượu và tiếng sáo. Sức sống của Mị thể hiện trong cảm xúc, trong sự hồi tưởng và hành động. Sức sống tiềm tàng thể hiện ngay cả khi bị trói.
+ Trong đêm cởi trói cho A Phủ: Từ sự đồng cảm với A Phủ (khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ khi bị trói), Mị nhận ra gia đình thống lý Pá Tra độc ác thật, trói người cho đến chết và Mị đã cắt dây mây cởi trói cho A Phủ.

– Kết quả của sức sống tiềm tàng: Mị cởi trói cho A Phủ và cùng A Phủ trốn hỏi Hồng Ngài đến với cuộc sống tự do.

b) Qua nhân vật A Phủ:

Nếu như trong phần đầu nhà văn chú ý miêu tả Mị thì ở phần sau, khi hai người chạy thoát khỏi Hồng Ngài và nên vợ nên chồng, nhà văn lại quan tâm miêu tả quá trình giác ngộ cách mạng của A Phủ nhiều hơn.
– Thoát khỏi gông cùm của bọn phong kiến, A Phủ lại đối đầu với bọn thực dân. Dần dần, anh ý thức rõ hơn về mình và tội ác của thực dân Pháp. Từ căm thù thực dân, A Phủ đã đến với A Châu, đến với cách mạng bằng một tấm lòng thành thật, trong sáng…Và nhiều lúc chính anh là người nâng đỡ tinh thần cho Mị.
– A Phủ dã khẳng định bản thân mình bằng chính hành động đấu tranh cách mạng.

 

3. Cần chú ý so sánh tính cách và số phận của Mỵ và A Phủ.

a) Sự giống nhau:

– Về tính cách: Cả hai đều là những người lao động, có những phẩm chất tốt đẹp, cả hai đều còn trẻ.
– Về số phận:

+ Cả hai đều là những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột và cuối cùng, kẻ thì thành con dâu gạt nợ, kẻ thì thành đứa ở gạt nợ cho nhà thống lý Pa Tra.
+ Sau một thời gian bị vùi dập, cả hai đều an phận, chấp nhận cuộc sống tôi đòi. Nhưng cuối cùng, cả hai đều đi từ đấu tranh tự phát, tự giải phóng cho mình và cuối cùng đi đến đấu tranh tự giác.

b) Sự khác nhau:

– Về tính cách:

+ Mị là cô gái có tâm hồn nhạy cảm (nhắc lại những vấn đề về sự hồi sinh trong tâm hồn cô trong đêm xuân và việc cởi trói cho A Phủ.)
+ Phủ cứng cỏi, gan dạ, ngay thẳng (với A Phủ, tác giả chủ yếu miêu tả hành động hơn là biểu hiện nội tâm)

– Về số phận.

+ Mỵ tiêu biểu cho những người phụ nữ miền núi, thân phận thấp hơn cả con ngựa trong nhà thống lý Pátra .
+ A Phủ tiêu biểu cho người thanh niên nghèo miền núi, là công cụ lao động cho những kẻ bóc lột.

III. NGHỆ THUẬT

– Thành công tiêu biểu là đã miêu tả một cách logic quá trình phát triển nội tâm của nhân vật, đặc biệt là tính cách nhân vật Mị.
– Là một cây bút có biệt tài trong việc tả cảnh vật, thiên nhiên. Thiên nhiên trong tác phẩm sống động, có hồn, khêu gợi, góp phần đắc lực cho việc biểu hiện nội tâm nhân vật.
– Sử dụng thành thạo lời nửa trực tiếp, đó là lôøi kể của tác giả nhưng người đọc vẫn cảm nhận như chính lời của nhân vật đang tự bộc lộ “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”…, có nhiều chi tiết giàu chất thơ.

 

IV. KẾT LUẬN

– Truyện có giá trị nhân đạo sâu sắc : Phát hiện và ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người. Giá trị nhân đạo của “Vợ chồng A Phủ” gắn liền với đường lối cách mạng và chính sách dân tộc của Đảng : Giải phóng cho những người lao động bị áp bức bóc lột, đem đến cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn.
– Qua hai nhân vật Mỵ và A Phủ, tác phẩm cho thấy : Xã hội phong kiến miền núi dù có tàn bạo đến đâu cũng không giam hãm được khát vọng sống của con người.

Trong bài thơ Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện những ngày tháng gian khổ

Đề bài: Trong bài thơ “ Việt Bắc”, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện những ngày tháng gian khổ:

“Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

….

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”.

Và tái hiện những chiến thắng lịch sử hào hùng của quân dân Việt Bắc:

“Những đường Việt Bắc của ta

… Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Anh/chị hãy phân tích bức tranh Việt Bắc qua hai đoạn thơ, từ đó làm nổi bật sự vận động của cảm xúc trong thơ Tố Hữu.

Bài làm

Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ. Đến với những câu thơ phần đầu và phần cuối của bài thơ “Việt Bắc”-Tố Hữu ta thấy được tình cảm gắn bó nghĩa tình và những cảm xúc vui tươi của nhà thơ. Qua đó, ta hiểu sâu sắc hơn sự vận động của cảm xúc trữ tình trong nhà thơ Tố Hữu:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Những đường Việt Bắc của ta

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Có thể nói, Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu tiên của văn nghệ Cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” tiêu biểu cho phong cách thơ ông, là minh chứng hùng hồn cho sự vận động cảm xúc của Tố Hữu. “Việt Bắc” ra đời tháng 10/1954 ngay sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hòa bình trở lại, miền Bắc được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của Cách mạng được mở ra. Trung ương Đảng, Chính phủ rời Việt Bắc trở về Hà Nội. Gắn với sự kiện lịch sử ấy, “Việt Bắc” kết tinh theo quy luật của tác phẩm văn học: “Thơ ca đi từ chân trời một người đến chân trời mọi người” (Paul Eluard) mà ở đó chất chính trị và trữ tình hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau.

trong bai tho viet bac nha tho to huu da tai hien nhung ngay thang gian kho - Trong bài thơ Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã tái hiện những ngày tháng gian khổ

Nếu hai câu hỏi ở phần trước mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ “mười lăm năm ấy” với những gắn bó thiết tha của chiến khu Việt Bắc thì kỷ niệm kháng chiến gian khổ đến đây được gợi ra:

Mình đi có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù

Mình về có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

Lời thơ nhẹ nhàng đưa ta vào một miền không gian lung linh trong tâm thức người ở lại. Những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần. Điệp ngữ ở các câu sáu “Mình đi có nhớ,…mình về có nhớ”, sự đăng đối trong hai vế câu tám với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, thiết tha cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến, giăng mắc trong lòng người đi, người ở lại để từ đó quá khứ đầy ắp kỷ niệm ào ạt trở về. Trong lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ khắc nghiệt của thiên nhiên “mưa nguồn, suối lũ, mây mù” tới cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn “miếng cơm chấm muối”. Cách xưng hô “mình” – người ra đi ( chiến sĩ hoạt động Cách mạng) cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa quân và dân, giữa miền ngược và miền xuôi. Dù thiên nhiên, núi non có hiểm trở, khắc nghiệt, vật chất có thiếu thốn, nghèo nèn thì “mình” với “ta” cùng chung sức, chung lòng, chịu đựng những gian lao, cùng đồng cam chịu khổ. Và quân dân, đồng bào Việt Bắc luôn tự ý thức về trách nhiệm với đất nước, mối thù dân tộc: “mối thù nặng vai”. Mối thù ấy không có hình khối, không trọng lượng nhưng là trọng trách, nghĩa vụ cao cả với quê hương, xứ sở trong khói lửa điêu tàn, đàn áp nặng nề của thực dân. Sự chia sẻ trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung ở tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với Cách mạng. Từ kết cấu đối đáp, giao duyên, thể thơ lục bát đậm đà tính dân tộc với nghĩa tình sắt son, nồng ấm của quân dân, khổ thơ đã mang đến âm hưởng da diết, nồng nàn đạt tới sự thăng hoa của chính trị và trữ tình. Chỉ với bốn dòng thơ, Tố Hữu đã gợi ra một niềm ký ức thân thương chất chứa lòng người. Lời thơ man mác buồn, giọng thơ thiết tha, mặn nồng khiến cho những hình ảnh thơ trở nên có hồn, rung động trái tim người đọc.

 

Nhưng “Việt Bắc” đâu chỉ là một bản tình ca trữ tình. Ta bắt gặp những dòng thơ “lửa cháy” thể hiện khí thế, hào hùng của quân dân Việt Bắc, những ngày “mình” và “ta” cùng nhau ra trận và cùng nhau chiến thắng.

Mở đầu đoạn thơ là hình ảnh những con đường được nhắc đến trong niềm tự hào sâu sắc: “Những đường Việt Bắc của ta”. Câu thơ chan chứa niềm tự hào với cảm giác làm chủ vùng không gian rộng lớn của Tổ quốc. Cảm hứng này nhiều lần xuất hiện trong thơ ca Cách mạng như “Mây của ta, trời thắm của ta” (“Ta đi tới”-Tố Hữu); “Trời xanh đây là của chúng ta/Núi rừng đây là của chúng ta” (Nguyễn Đình Thi). Trong dòng hoài niệm của người đi, những con đường ấy là không gian của đoàn quân ra trận với khí thế:

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Câu thơ miêu tả âm thanh của tiếng bước chân người. Từ láy “rầm rập” cho ta thấy âm thanh nhanh, mạnh của những đoàn quân bước đều trong đêm. Từ láy “điệp điệp, trùng trùng” trong câu thơ tiếp theo đã làm hiện lên cảnh đoàn quân ra trận vừa hào hùng, vừa đông đảo, mạnh mẽ. Hình ảnh so sánh “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” kết hợp với từ láy tượng thanh, tượng hình mang đến khí thế mạnh mẽ của đoàn quân ngày đêm ra trận, khiến rung chuyển cả đất trời. Cảm hứng sử thi hào tráng khiến cho sức mạnh kỳ diệu của con người nâng lên tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh những đoàn quân trong đêm là một thực tế của chiến trường, của sự chuẩn bị cho kháng chiến về mọi mặt. Không phải trong một vài đêm mà là “đêm đêm”, chi tiết ước lệ chỉ một thời gian lâu dài của cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ khi cả dân tộc ta kiên cường vượt qua mọi thử thách, chuẩn bị cho ngày mai tươi sáng. Trong hoài niệm của người đi, Việt Bắc không chỉ hiện ra trong sức mạnh hào tráng, đông đảo của đoàn quân ra trận mà còn lưu giữ ấn tượng khó quên về chủ nghĩa anh hùng Cách mạng trong kháng chiến. Vẻ đẹp vừa chân thực, vừa lãng mạn ấy được thể hiện qua hình ảnh người chiến sĩ:

 

Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.

Giống như hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu, ánh sao đầu súng là một hình ảnh thực khi người lính hành quân trong đêm, ngôi sao lấp lánh như treo trên đầu mũi súng. Trăng sao luôn là người bạn đồng hành với các chiến sĩ trong những đêm hành quân gian khổ. Nguyễn Đình Thi viết: “ Ngôi sao nhớ ai mà lấp lánh/ Soi sáng đường chiến sĩ giữa hàng quân”. Nếu vầng trăng của Chính Hữu là biểu tượng cho hòa bình, hình ảnh “đầu súng trăng treo” gợi suy ngẫm về mục đích chiến đấu cao cả, nếu ngôi sao lấp lánh của Nguyễn Đình Thi là nét đẹp trong tâm hồn người lính thì hình ảnh “Ánh sao đầu súng” của Tố Hữu lại biểu tượng cho lý tưởng cao đẹp của người chiến sĩ, cho ánh sáng của lý tưởng độc lập dân tộc. Câu thơ là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và cảm hứng lãng mạn trong thơ ca kháng chiến, mang điểm nhấn cho khổ thơ.

Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện con đường ra trận không chỉ có những đoàn quân vệ quốc mà còn có:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Phép đảo ngữ “dân công đỏ đuốc” và hai thanh trắc liên tiếp (đỏ đuốc, nát đá) đã đem đến những ấn tượng ký diệu về sự đông đảo, sức mạnh, niềm vui và ánh sáng. Những đoàn dân công tiếp vận, chuyển lương thực phục vụ chiến trường cùng bước đi trong đêm, ánh đuốc soi đường đỏ rực nối tiếp nhau, tạo ra cảnh tượng hào hùng, không khí vui tươi, náo nức. Hình ảnh “bước chân nát đá” đã ngợi ca sức mạnh phi thường của những đoàn dân công đông đảo nối tiếp nhau ngày đêm tải lương, tải đạn ra chiến trường, trực tiếp góp phần vào chiến thắng. Cách nói này còn gợi cho ta liên tưởng tới thành ngữ “Chân cứng đá mềm” trong dân gian, qua đó nhà thơ khắc họa sinh động sức mạnh và ý chí kiên cường của những con người dũng cảm vượt lên trên mọi khó khăn, có thể chiến thắng mọi khó khăn, gian khổ. Cảnh tượng còn hùng vĩ, tráng lệ hơn bởi con người luôn bước đi trong một không gian chan hòa ánh sáng: ánh sáng lung linh của sao trên đầu súng, ánh sáng rực rỡ của những ngọn đuốc soi đường, ánh sáng lấp lánh huyền ảo của muôn tàn lửa bay và đặc biệt là ánh sáng chói lọi từ ngọn đèn pha:

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

Hình ảnh “ngày mai lên” là hình ảnh ẩn dụ cho ánh bình minh ngày mới tươi sáng, tương lai tràn đầy niềm tin, hi vọng của dân tộc. Như vậy, khuynh hướng sử thi đã gắn kết sâu sắc với cảm hứng lãng mạn làm tăng thêm sức mạnh cho những con người đang chiến đấu trong gian khổ, nguy nan với niềm tin tưởng, lạc quan vào Cách mạng

Kết quả của những đêm dài gian truân, vất vả ấy là:

Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng

Sau những ngày tháng chiến đấu gian khổ, mất mát, hi sinh, chiến sĩ và đồng bào Việt Bắc đã chiến thắng thực dân Pháp. Chiến dịch Điện Biên Phủ viết nên một trang sử hào hùng, là dấu son chói lọi cho Tổ quốc. Những tên đất, tên miền trở thành điểm nhớ thân thương trong tâm khảm người cán bộ về xuôi (Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…) Nhịp thơ nhanh, dồn dập, sảng khoái; từ “vui” điệp lại trong cả bốn câu thơ cùng sự nối tiếp các cụm từ: vui về…vui từ… vui lên; những địa danh liên tiếp hiện ra theo bước đi dồn dập của chiến thắng…- đó là những yếu tố ngôn từ đặc sắc thể hiện sinh động không khí náo nức, say mê của quân dân Việt Bắc ngày chiến thắng. Cùng ca ngợi những chiến công vang dội, ta làm sao quên những dòng thơ ngùn ngụt sắt lửa trong bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu

 

Điện Biên vời vợi nghìn trùng

Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta

Đêm nay bè bạn gần xa

Tin về chắc cũng chan hòa vui chung

“Việt Bắc” vừa là khúc tình ca vừa là khúc hùng ca Cách mạng. Qua hai đoạn thơ, ta nhận ra sự thay đổi trong mạch cảm xúc của Tố Hữu: từ nhớ những ngày gian khổ đến nhớ những ngày chiến đấu hào hùng, chiến thắng vẻ vang; từ niềm xúc động thấm thía đến vui say, hào sảng; từ ân tình với quá khứ đến niềm vui với hiện tại và tin ở tương lai. Cảm xúc này còn chi phối hình ảnh thơ. Nếu như ở đoạn thơ thứ nhất, hình ảnh thiên về tả thực thì ở đoạn thơ thứ hai hình ảnh mang đậm tính chất sử thi, chi phối đoạn thơ. Nhịp thơ cũng chuyển biến rất đỗi tinh tế: từ thiết tha, chậm rãi đến gấp gáp, mạnh mẽ khiến cho đoạn thơ thứ nhất mang âm hưởng khúc tình ca và âm hưởng hùng ca ở đoạn thơ thứ hai. Sự vận động ấy đã làm cho cảm xúc trữ tình Tố Hữu thêm phong phú, dạt dào cảm xúc, tạo nên phong cách nhà thơ. Đồng thời góp phần làm nên đặc trưng của văn học Cách mạng giai đoạn đầu 1945-1975 với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, luôn hướng tới ánh sáng, sự sống và tương lai, từ đau khổ đến niềm vui, hạnh phúc.

Tố Hữu là nhà thơ của tình thương mến, nhà thơ của triệu con tim hướng về Tổ quốc. Mấy mươi năm trôi qua “Việt Bắc” vẫn đi trong dư vang của lòng người để rồi mỗi lần đọc lại, người đọc như sống về những ngày chiến đấu gian khổ mà hào hùng, những ngày đói khổ mà chung mối thù, chung ý chí, cùng quyết tâm hướng đến ngày chiến thắng rộn vang. Nói hộ lòng nhân dân, tái hiện lịch sử bằng vần thơ trĩu nặng tình, Tố Hữu xứng đáng là cánh chim đầu đàn của nền văn nghệ Cách mạng, là cái bông hoa tươi ngát trong nền văn học Việt Nam. Rõ ràng “sắt lửa mặt trận” đã hun đúc cho nền văn nghệ chúng ta một Tố Hữu đầy nhiệt huyết:

Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh

Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy

Tố Hữu

Làm thế nào để có được sự tự tin trong cuộc sống?

Làm thế nào để có được sự tự tin trong cuộc sống?

Bài làm

Có lẽ, để thật sự tự tin trong cuộc sống, con người cần phải thực hiện được hai việc quan trọng: thấu hiểu và thể hiện bản thân, trải nghiệm. Có thực sự thấu hiểu, “đọc vị” được chính mình, ta mới thực sự xác định được các khuyết điểm và ưu điểm của chính mình. Nhà bác học Albert Edision đã từng nói: “Mỗi người sinh ra đều là một thiên tài. Nhưng nếu bạn đánh giá con cá bằng khả năng leo cây thì nó sẽ sống suốt đời và nghĩ rằng mình là kẻ ngốc”. Vậy nên, ta đừng là “con cá” ấy mà hãy là ta, hãy cứ trân trọng và tin vào bản thân mình. Nhờ sự thấu hiểu chính mình, ta sẽ bớt e dè, tự tin, bớt sợ hãi trước những tình huống bất ngờ. Nhưng chỉ hiểu thôi là chưa đủ, ta còn cần dũng cảm thể hiện bản thân. Việc mạnh mẽ thể hiện, mạnh mẽ đón nhận khen, chê sẽ giúp ta thêm tự tin, thoải mái. Cuối cùng, muốn lĩnh đoạt được sự tự tin thì chìa khóa then chốt là sự trải nghiệm. Ta được đi những nơi ta thích, thoát khỏi vùng an toàn của chính mình, được gặp gỡ những gương mặt, vùng đất mới và làm quen với cuộc sống, được học nhiều bài học bổ ích, làm dạn dày vốn sống. Ta biết đến hoa hậu H’Nen Niê – top năm Hoa Hậu Hoàn vũ thế giới. Phải chăng chính sự tự tin, dạn dày trong trải nghiệm đã tạo nên chị của ngày hôm nay với vẻ đẹp của niềm kiêu hãnh dù cho chị có xuất thân từ đồng bào Ê-đê. Sự tự tin có thể không phải do bạn thiếu năng lực mà là từ cách bạn rèn luyện để có được sự tự tin và cái nhìn của bạn về chính mình. Bên cạnh đó, tự tin không phải tự phụ hay tự kiêu, tự tin thái quá dẫn đến chủ quan. Tóm lại, sự tự tin không phải một món hàng xa xỉ, vì vậy hãy mạnh dạn bước đến chiếm lĩnh bằng giá trị của chính bản thân mình.

 

Nghị luận xã hội về thói vô trách nhiệm (lớp 12)

Nghị luận xã hội về thói vô trách nhiệm (lớp 12)

Dàn ý

I. Mở bài

– Trong bất cứ công việc gì chúng ta đều phải làm với một trách nhiệm cao nhất

– Tuy nhiên không phải ai cũng có trách nhiệm, hiện nay nổi lên hiện tượng con người vô trách nhiệm. Chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về vấn đề này

II. Thân bài

  1. Giải thích

– Thói vô trách nhiệm là gì?

+ Là không có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội

+ Làm việc qua loa, không có ý thức tập trung làm việc làm ảnh hưởng tới chất lượng và kết quả công việc

+ Luôn ỉ lại người khác

  1. Biểu hiện của thói vô trách nhiệm

– Không quan tâm, thờ ơ với mọi người xung quanh

– Có lối sống buông thả, tới đâu hay tới đó

– Luôn thờ ơ với công việc, không có ý thức khi làm việc

– Thờ ơ với bạn bè, gia đình, người thân

– Luôn cho rằng mình đúng, luôn chối bỏ những điều mình làm sai, không chịu nhận lỗi sửa sai

  1. Tác hại của thói vô trách nhiệm

– Làm cho đạo đức của con người dần đi xuống

– Mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng xa cách

– Chất lượng công việc sa sút

– Kìm hãm sự phát triển của đất nước

III. Kết bài

–  Bản thân mỗi người cần nhận thức rõ về tác hại của thói vô trách nhiệm để không mắc phải

 

–  Không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm trong công việc và trong cuộc sống

Nghị luận về hành động trả thù của Tấm (lớp 12)

Nghị luận về hành động trả thù của Tấm (lớp 12)

Dàn ý

I. Mở bài

– Truyện “Tấm Cám” là một truyện cổ tích nổi tiếng được nhiều người biết đến

– Kết thúc truyện “Tấm Cám” là chi tiết Tấm trả thù Cám, chi tiết này gây nhiều tranh cãi

II. Thân bài

Hành động trả thù của Tấm mang nhiều ý nghĩa mà tác giả dân gian muốn gửi gắm

+ Thể hiện được ước mơ về sự đổi đời của con người, những người hiền lành gặp nhiều bất hạnh, khó khăn cuối cùng cũng được nhận lại hạnh phúc

+ Thể hiện quy luật tất yếu cái thiện luôn chiến thắng cái ác

– Tấm là người có bản chất hiền lành, chất phác, lương thiện nhưng bị hãm hại nhiều lần Tấm, cho dù Tấm đã cảnh báo nhưng mẹ con Cám vẫn tìm cách hãm hại Tấm nên Tấm mới trả thù, để bảo vệ chính mình

– Mẹ con Cám ngay từ đầu đã bóc lột Tấm không chỉ về tinh thần mà còn cả về thể xác, sau đó lại giết Tấm để giành hạnh phúc của Tấm không chỉ giết một lần mà những 4 lần. Mẹ con Cám bộc lộ rõ sự độc ác của mình

– Kết thúc truyện là hành động Tấm trả thù mẹ con Cám, theo hoàn cảnh ra đời của câu chuyện, hành động này thể hiện một quy luật tất yếu, ác giả ác báo, ở hiền gặp lành

 

– Hành động của Tấm đại diện cho cách trừng trị của nhân dân ta đối với những kẻ gian ác, bảo vệ cái thiện, cái tốt

III. Kết bài

–   Hành động của Tấm là một cách trừng trị dứt điểm cái ác

–   Thể hiện thông điệp của nhân dân

Nghị luận xã hội về sự thành công (Lớp 12)

Nghị luận xã hội về sự thành công (Lớp 12)

Dàn ý

I. Mở bài

– Thành công luôn là đích cuối cùng mà mỗi con người mong muốn đạt được trong cuộc sống

– Chúng ta cùng đi tìm hiểu về sự thành công

II. Thân bài

  1. Giải thích

Thành công là gì?

+ Thành công là những gì mà con người đạt được sau một công việc, một việc làm có ích

+ Thành công trong tình cảm là điều đạt tới được hạnh phúc

+ Thành công còn là thước đo năng lực của con người

  1. Làm thế nào để thành công?

– Mỗi người cần suy nghĩ tích cực

– Biết thừa nhận sai lầm

– Không ngừng học hỏi

– Biết lắng nghe

– Biết quý trọng thời gian

– Tạo mối quan hệ với những người xung quanh

– Sáng tạo

– Giữ lời hứa

– Không được bằng lòng với những gì mình đang có

  1. Bình luận

– Hiện nay có rất nhiều người đạt được thành công nhờ sự nỗ lực, cố gắng không ngừng nghỉ

+ Học sinh cố gắng học tập đạt kết quả cao, thi vào được trường mình mong muốn,..

+ Trong gia đình: thành công là khi gia đình hạnh phúc

+ Trong công việc: đạt được thành tích cao trong công việc

–  Phê phán những người không biết cố gắng để đạt tới thành công, luôn bằng lòng với những gì mình đang có

III. Kết bài

–  Mỗi người cần phải biết nỗ lực để đạt được thành công

 

–  Thành công sẽ là thước đo năng lực và vị trí của mỗi cá nhân trong xã hội

Cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương qua bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” (lớp 12)

Cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương qua bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” (lớp 12)

Dàn ý

I. Mở bài

Vẻ đẹp của dòng sông Hương đã được khắc họa thành công dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường thông qua bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông”

II. Thân bài

  1. Vẻ đẹp của dòng sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên

* Sông Hương ở đầu nguồn

– Mang sức sống mãnh liệt và hoang dại nhưng cũng dịu dàng và say đắm

– Dòng sông được hun đúc một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng

* Sông Hương ở đồng bằng

– Sông Hương được thay đổi tính cách

– Sông Hương lại mang vẻ đẹp trầm mặc, chảy dưới chân những rừng thông

– Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi

* Sông Hương đi qua thành phố và gây nhiều ấn tượng

– Dòng sông Hương như không muốn rời xa thành phố

– Mang một chút vương vấn, cả chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu

* Sông Hương trở lại để nói một lời thề trước khi về biển cả

  1. Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ văn hóa

– Tác giả cho có một dòng thi ca về sông Hương

– Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế

  1. Vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử

– Tên của dòng sông Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi

 

– Dòng sông là điểm tựa bảo vệ biên cương thời Đại Việt

– Thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi Nguyễn Huệ

– Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám với những rung chuyển lịch sử

– Sông Hương gắn liền với lịch sử của Huế và của cả dân tộc

III. Kết bài

–  Vẻ đẹp của dòng sông Hương được tác giả nhìn từ nhiều góc độ khác nhau

–  Dòng sông Hương mang một vẻ đẹp là được soi rọi từ tâm hồn và tình yêu quê hương xứ Huế của nhà văn

Phân tích tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân (lớp 12)

Phân tích tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân (lớp 12)

Dàn ý

I. Mở bài

– Kim Lân là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam, ông tập trung viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng

– Một trong số các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân chính là “Vợ nhặt”

II. Thân bài

  1. Tình huống truyện

– Tình huống truyện được thể hiện ngay qua nhan đề của tác phẩm

– Nhan đề lạ, độc đáo, gây được sự chú ý đối với bạn đọc

– Tình huống truyện: Tràng, một người xấu trai, nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư, tính ngốc nghếch, hội tụ đầy đủ các yếu tố để không lấy được vợ vậy mà lại có vợ

    1. Diễn biến tâm trạng của các nhân vật

 a. Nhân vật Tràng

– Nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khát

– Lúc đầu Tràng thấy lo sợ, nhưng sau đó thì thấy phởn phơ, vui mừng , rạng rỡ hơn

– Sau đêm có vợ, lòng Tràng ngập tràn vui sướng

=>Khát khao của Tràng về một cuộc sống hạnh phúc dù trong hoàn cảnh nghèo đói, khó khăn như thế nào

b. Nhân vật Thị

– Lúc đầu thị cong cớn, sưng sỉa, vô duyên

– Sau đó khi về làm vợ Tràng, thị lại khép nép, hiền hậu, ngoan ngoãn, thu vén cho gia đình

=>Ở thị có sự thay đổi tính cách, thị cũng khao khát hạnh phúc gia đình

 

c. Nhân vật bà cụ Tứ

– Lúc đầu ngạc nhiên, băn khoăn

– Sau đó, vừa vui vừa sợ không biết liệu các con có lo nổi cho nhau hay không

=> Tâm trạng bà cụ Tứ phức tạp nhưng mà hợp lí

III. Kết bài

– Truyện đã tố cáo được tội ác của xã hội thực dân qua bức tranh về nạn đói

– Thể hiện tình cảm gắn bó yêu thương đùm bọc nhau của con người, và khát vọng hướng đến hạnh phúc của con người dù trong hoàn cảnh nào

Nghị luận về bài học được rút ra trong câu chuyện: Thuốc chữa bệnh đau buồn

Đề bài: Thuốc chữa bệnh đau buồn

Chuyện kể về một người phụ nữ vừa mất con trai. Trong nỗi đau thương tột cùng, bà tìm đến một nhà hiền triết. “Có lời cầu nguyện nào, câu thần chú nào mà ông biết có thể làm con trai tôi sống lại không?” – lời của người mẹ thật sự tuyệt vọng.

Thay vì từ chối hoặc khuyên bà mẹ hãy nguôi ngoai, nhà hiền triết đáp: “Hãy tìm về đây cho ta một hạt giống cây mù tạc từ gia đình nào chưa từng biết đến đau khổ. Nó có thể dùng để xua tan đi nỗi đau của bà.”

Người phụ nữ cảm tạ và lập tức lên đường tìm hạt giống thần kỳ. Đầu tiên, bà tìm đến một căn nhà lớn rất sang trọng, gõ cửa và hỏi: “Tôi đang tìm hạt giống cây mù tạc từ ngôi nhà không bao giờ biết đến đau khổ. Có phải nơi này không?”. Họ trả lời rằng bà đã nhầm chỗ. Họ kể với bà những chuyện bi thảm đã xảy ra đến với mình.

Nghe chuyện, bà ngồi lại và an ủi họ.

Rồi bà lại tiếp tục cuộc tìm kiếm gia đình hạnh phúc nhất. Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, từ những căn nhà cao sang hay gác xép tồi tàn, bà đều được trả lời bằng những câu chuyện buồn.

Bà trở nên quan tâm và muốn giúp đỡ, chia sẻ nỗi bất hạnh của người khác, đến nỗi sau cùng bà đã quên đi câu hỏi về hạt giống cây mù tạc thần kỳ.

Mà tự bao giờ hạt giống thần kỳ đó cũng đã mang nỗi đau trước kia ra khỏi cuộc đời bà rồi.

Qua câu chuyện trên, anh/chị rút ra được bài học gì cho bản thân mình? Suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của câu chuyện trên?

Bài làm

Khổ đau là gì? Là khi ta thất bại, đau đớn, buồn bã hay tuyệt vọng? Câu hỏi ấy luôn khiến người ta phải băn khoăn vì không thể tìm ra câu trả lời thích hợp nhất. Nhưng còn một câu hỏi còn khó trả lời hơn, đó là: “Hạnh phúc là gì?”. Con người là loài động vật thông minh nhất trên trái đất và cũng vì quá thông minh nên những phạm trù về cảm xúc của con người luôn rất khó để hiểu và nắm bắt được hoàn toàn. Thế nhưng, có một câu chuyện mà chắc rằng sau khi đọc xong đa số mọi người đều sẽ tìm được cho mình một định nghĩa hoàn chỉnh nhất về hai từ “hạnh phúc”. Đó là câu chuyện về một người mẹ vừa mất con mang tên “Thuốc chữa bệnh đau buồn”.

 

Một người mẹ vừa mất đi đứa con trai mà bà yêu thương. Bà đau đớn tuyệt vọng tìm tới một nhà hiền triết với ước mong có phép màu giúp con trai của bà sống lại. Nhà hiền triết bảo với bà rằng chỉ cần tìm được hạt giống câu mù tạc từ một gia đình chưa từng biết đau khổ, nguyện ước của bà sẽ thành hiện thực. Bà mẹ ấy gõ cửa khắp mọi nhà, dù là những nhà giàu có hay nghèo khổ, nhưng ai cũng đều có những câu chuyện đau buồn riêng. Bà đồng cảm và an ủi, sẻ chia nỗi đau cùng họ và không biết từ lúc nào, vết thương trong lòng bà đã khép miệng. Câu chuyện tuy ngắn nhưng lại đầy gần gũi, chân thực và triết lý sâu sắc. Mất mát, đau thương, nỗi buồn là những gam màu tối luôn thường trực trong cuộc sống mỗi người. Thế nhưng, chỉ cần biết quan tâm, sẻ chia với mọi người, biết hướng tới ngày mai, hướng tới những điều tích cực thì nỗi đau nào rồi cũng sẽ qua, hạnh phúc rồi sẽ gõ cửa trái tim ta.

Cuộc sống luôn tràn đầy những khó khăn, thử thách dành tới cho mỗi người. Mỗi lần điều khó khăn ấy tới nó lại mang đến những sắc thái cảm xúc đầy tiêu cực: khó chịu, lo lắng, sợ hãi và có khi còn cả những mất mát và tuyệt vọng. Giống như người mẹ trong câu chuyện kia, sự ra đi của đứa con trai khiến bà đau khổ tột cùng. Thậm chí một người đã làm mẹ đầy lí trí nhưng vẫn đi hỏi người khác rằng: “Có lời cầu nguyện, câu thần chú nào có thể làm con trai tôi sống lại không?”. Nỗi đau đớn ấy chắc chắn không hề nhỏ bé, thế nhưng, chính sự cảm thông, sẻ chia chân thành mà người mẹ ấy tạo ra mỗi khi nghe một câu chuyện buồn, một nỗi bất hạnh của người khác đã giúp nỗi đau tưởng như không thể chữa lành ấy liền sẹo. Cuộc sống chính là như vậy, đầy rẫy những khó khăn nhưng chỉ cần mở rộng lòng mình hơn, biết san sẻ nỗi buồn, biết đồng cảm và thấu hiểu, khó khăn ấy rồi sẽ qua và hạnh phúc rồi sẽ đến.

Đa số chúng ta mỗi khi gặp biến cố sẽ than thân trách phận rằng: “Sao mình lại khổ thế này!”, “Bao nhiêu khó khăn đều đổ lên đầu mình”. Nhưng chỉ cần bạn đừng ôm khư khư chúng cho riêng mình, hãy bộc lộ nó ra, để tâm sự ấy cùng người khác san sẻ nỗi đau sẽ vơi bớt đi rất nhiều. Bởi vì khi sẻ chia bạn sẽ không một mình, bạn sẽ không phải cô độc đối chọi với những nỗi đau, thử thách một mình, bạn sẽ tìm được liều thuốc tinh thần mạnh mẽ nhất từ chính những lời an ủi, động viên, thấu cảm của những người xung quanh để vượt qua khó khăn. Như Lão Hạc, lão nông có số phận đau đớn và tiêu biểu nhất cho bi kịch cuộc đời đầy xót xa của những người nông dân trước Cách mạng – cô đơn, khổ sở, đói nghèo. Thế nhưng, những buổi được trò chuyện, uống nước chè, ăn khoai lang trút bầu tâm sự cùng ông giáo luôn làm lão thấy vui vẻ, quên đi nỗi cô đơn, quẫn bách. Khi bạn chịu chia sẻ, chịu lắng nghe bạn sẽ nhận ra rằng hóa ra không phải ai cũng được hạnh phúc trọn vẹn. Ai cũng có những nỗi buồn riêng, ai cũng có những thiệt thòi riêng. Thế nhưng, mỗi lời cổ vũ, động viên bạn trao đi hay là nhận lại, dù nhỏ bé thôi nhưng đó lại chính là đòn bẩy hy vọng thật lớn lao dành tới cho những tâm hồn đau thương. Dành những lời quan tâm tới người khác sẽ giúp cả họ và bạn vơi bớt được đi phần nào nỗi buồn trong lòng, cảm thấy nhẹ nhõm, lạc quan và hạnh phúc hơn.

 

Phải, hạnh phúc chính là như thế. Dẫu cuộc sống luôn ẩn chứa đầy bão tố nhưng chỉ cần biết san sẻ, cảm thông với những nỗi buồn của cả mình và người khác, hạnh phúc rồi sẽ vượt qua giông bão và tìm đến với bạn thôi. Một xã hội văn minh tiến bộ luôn tìm kiếm và phát triển vì những điều như thế. Mượn sức mạnh của sự đồng cảm, sẻ chia để rút ngắn khoảng cách giữa người với người, xây dựng những mối quan hệ gắn kết bằng tình thương, lòng bác ái chính là cơ sở vững chãi của một xã hội tốt đẹp. Và biết dành tình yêu, sự cảm thông để xua tan nỗi buồn đau, dẫn lối những điều hạnh phúc chính là những đức tính tốt đẹp nhất của một con người tốt, một công dân tốt.

Vậy nhưng, hạnh phúc là của mình nhưng không phải ai cũng biết tìm tới nó. Khi những chuyện khổ đau ập tới, buồn bã, đau đớn, tuyệt vọng là những xúc cảm đầu tiên và cũng là duy nhất của một số người. Họ chỉ biết chìm đắm trong u sầu, tối tăm và đau khổ. Buồn đau trước mất mát, đau thương là điều cần phải thông cảm nhưng nếu như cứ mãi để cho những điều tiêu cực choáng lấy bạn thì đó là điều đáng phê phán. Khó khăn sinh ra là để bạn cố gắng vươn lên nhưng nếu như bạn không thể vượt qua nó thì bạn chính là kẻ thua cuộc, thất bại. Bạn cho rằng bạn bất hạnh nhưng bạn không vượt qua được nỗi bất hạnh thì sẽ không thể nào tìm được hạnh phúc. Và cũng có những người sống ích kỉ, cá nhân, niềm vui, nỗi buồn không muốn chia sẻ cùng ai và đứng trước những nỗi đau của người khác thì lại thờ ơ, vô cảm. Đó đều là những hành vi đáng trách. Cuộc sống hạnh phúc phải dựa trên những mối quan hệ tốt đẹp, con người muốn vui vẻ phải hòa nhập với cộng đồng. Cho nên, nếu như vẫn giữ sự ích kỷ, cá nhân thì cuộc sống của bạn sẽ không còn ý nghĩa nữa.

 

Câu chuyện của người mẹ đã dạy cho chúng ta bài học sâu sắc về giá trị của hạnh phúc trong cuộc sống. Hạnh phúc không phải là giàu sang, quyền quý, không phải cứ nhất thiết là đủ đầy vật chất mà nó giản dị thôi, chân thành thôi, chính là sẻ chia, cảm thông và hy vọng. Đau khổ cũng không phải chỉ là mỗi nước mắt, tuyệt vọng, không phải là dấu chấm hết cho cuộc đời bạn. Chỉ cần biết yêu thương mọi người xung quanh, biết san sẻ cho nhau cả những nụ cười và giọt nước mắt, cuộc sống sẽ trở nên hạnh phúc và tốt đẹp hơn.