A.
Kiến thức cơ bản
I. Tác giả Nguyễn Du
-
Tác giả Nguyễn Du (1765 – 1820)
-
Tên chữ là Tố Như
-
Hiệu là Thanh Hiên
-
Quê ở làng Tiên Điền – huyện Nghi Xuân – tỉnh Hà Tỹnh
-
Sáng tác nhiều tác phẩm chữ Hán và chữ nôm.
+
3 tập thơ chữ Hán gồm 243 bài.
+
Tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh thường gọi là
Truyện Kiều.
Hãy
nêu những nét chính về thời đại, gia đình, cuộc đời Nguyễn Du đã có ảnh
hưởng tới việc sáng tác Truyện Kiều.
a. Thời đại:
Nguyễn
Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, xã hội
phong kiến Việt Nam khủng hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa
nổ ra liên tục, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã “Một phen thay đổi sơn hà”. Nhưng triều
đại Tây Sơn ngắn ngủi, triều Nguyễn lên
thay. Những thay đổi kinh thiên động địa ấy tác động mạnh tới nhận thức
tình cảm của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút của mình vào hiện thực,
vào “Những điều trông thấy mà đau đớn
lòng”.
b. Gia đình:
Gia
đình Nguyễn Du là gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và có truyền thống
văn chương. Nhưng gia đình ông cũng bị sa sút. Nhà thơ mồ côi cha
năm 9 tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Hoàn cảnh đó cũng tác động lớn tới cuộc
đời Nguyễn Du.
c. Cuộc đời:
Nguyễn
Du có năng khiếu văn học bẩm sinh, ham học, có hiểu biết sâu rộng và từng
trải, có vốn sống phong phú với nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với
nhiều cảnh đời, nhiều con người số phận khác nhau. Ông từng đi sứ sang Trung
Quốc, qua nhiều vùng đất Trung Hoa rộng lớn với nền văn hoá rực rỡ. Tất cả
những điều đó đều có ảnh hưởng tới sáng tác của nhà thơ.
Nguyễn
Du là con người có trái tim giàu lòng yêu thương. Chính nhà thơ đã từng
viết trong Truyện Kiều “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Mộng Liên Đường Chủ Nhân trong lời Tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của
Nguyễn Du với con người, với cuộc đời: “Lời
văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến
ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột…”. Nếu
không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời
thì tài nào có cái bút lực ấy.
Về
sự nghiệp văn học của Nguyễn Du:
-
Sáng tác nhiều tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm.
+
3 tập thơ chữ Hán gồm 243 bài.
+
Tác phẩm chữ Nôm có Văn chiêu hồn, xuất sắc nhất là Đoạn trường tân thanh
thường gọi là Truyện Kiều.
II. Tác phẩm truyện Kiều
1.
Nguồn gốc và sự sáng tạo:
- Xuất xứ Truyện Kiều :
*
Viết Truyện
Kiều Nguyễn Du có dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
*
Tuy nhiên phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức lớn, mang ý nghĩa quyết định
thành công của tác phẩm:
- Nội dung : Từ câu truyện tình ở TQ đời
Minh biến thành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh (vượt xa Thanh Tâm
Tài Nhân ở tinh thần nhân đạo).
- Nghệ thuật:
+
Thể loại: Chuyển thể văn xuôi thành thơ lục bát – thể thơ lục bát truyền thống
của dân tộc gồm 3254 câu.
+
Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả thiên nhiên, đặc biệt là bút pháp tả cảnh
ngụ tình.
+
Ngôn ngữ: Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao của ngôn ngữ nghệ thuật.
2.
Hoàn cảnh: Sáng tác vào thế kỷ XIX (1805-1809)
3.
Thể loại: Truyện Nôm: loại truyện thơ viết bằng chữ Nôm. Truyện có khi
được viết bàng thể thơ lục bát. Có hai loại truyện Nôm: truyện nôm bình dân hầu hết không có tên tác giả, được viết
trên cơ sở truyện dân gian; truyện Nôm
bác học phần nhiều có tên tác giả, được viết trên cơ sở cốt truyện có
sẵn của văn học Trung Quốc hoặc do tác giả sáng tạo ra. Truyện Nôm phát triển
mạnh mẽ nhất ở nửa cuối thể ký XVIII và thế kỷ XIX.
4.
ý nghĩa nhan đề:
Truyện
Kiều có 2 tên chữ bán và 1 tên chữ nôm.
- Tên chữ hán: Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân: tên của 3 nhân vật trong truyện: Kim Trọng, Thuý Vân, Thuý
Kiều.
Đoạn
trường tân thanh: tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt ruột: bộc lộ chủ đề
tác phẩm (tiếng kêu cứu cho số phận người phụ nữ).
- Tên
chữ nôm: Truyện Kiều: Tên nhân vật chính - Thuý Kiều (do nhân dân đặt).
5.
Tóm tắt Truyện Kiều.
a. Phần thứ nhất : Gặp gỡ và đính ước.
Vương
Thuý Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng một gia đình trung
lưu lương thiện, sống trong cảnh "êm đềm trướng rủ màn che" bên cạnh cha mẹ và
hai em là Thuý Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân nhân tiết Thanh minh, Kiều
gặp chàng Kim Trọng
"phong tư tài mạo tót vời". Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp.
Kim Trọng dọn đến ở trọ cạnh nhà Thuý Kiều. Nhân trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng
gặp Kiều bày tỏ tâm tình. Hai người chủ động, tự do đính ước với nhau.
b. Phần thứ hai : Gia biến và
lưu lực
Trong
khi Kim Trọng về Liêu Dương chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan. Kiều nhờ
Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người
là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó, nàng được
Thúc Sinh – một khách làng chơi hào phóng – cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Nhưng
rồi nàng lại bị vợ cả của Thúc Sinh là Hoạn Thư ghen tuông, đầy đoạ. Kiều phải
trốn đến nương nhờ nơi cửa Phật. Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà -
một kẻ buôn người như Tú Bà, nên Kiều lần thứ hai rơi vào lầu xanh. Tại đây,
nàng gặp Từ Hải, một anh hùng đội trời đạp đất. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo
ân báo oán. Do mắc lừa quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết.
Kiều phải hầu đàn hầu rượu Hồ Tôn Hiến rồi ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn,
tủi nhục, nàng trẫm mình ở sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu, lần thứ
hai Kiều nương nhờ cửa Phật.
c. Phần thứ ba: Đoàn tụ:
Sau
nửa năm về chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm Kiều. Hay tin gia đình Kiều gặp
tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha, chàng vô cùng đau đớn. Tuy kết duyên
với Thuý Vân nhưng chàng vẫn không thể quên mối tình đầu say đắm. Chàng quyết
cất công lặn lội đi tìm Kiều. Nhờ gặp được sư Giác Duyên mà Kim, Kiều tìm được
nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều theo ý mọi người, Thuý Kiều nối lại duyên cũ với
Kim Trong nhưng cả hai cùng nguyện ước “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
III. Giá trị tác phẩm
* Giá trị nội dung, nghệ thuật của Truyện Kiều :
1.
Giá trị nội dung:
a. Giá trị hiện thực:
a1. Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp
thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên quyền sống của con người.
* Bọn quan lại :
-
Viên quan xử kiện vụ án Vương Ông vì tiền chứ không vì lẽ phải.
-
Quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến là kẻ bất tài, nham hiểm, bỉ ổi và trâng
tráo.
* Thế lực hắc ám:
-
Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh… là những kẻ táng tận lương tâm. Vì tiền, chúng
sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm và số phận con người lương thiện.
->
Tác giả lên tiếng tố cáo bộ mặt xấu xa bỉ ổi của chúng.
a2. Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những con người
bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ.
-
Vương Ông bị mắc oan, cha con bị đánh đập dã man, gia đình tan nát.
-
Đạm Tiên, Thuý Kiều là những người phụ nữ đẹp, tài năng, vậy mà kẻ thì chết
trẻ, người thì đoạ đày, lưu lạc suốt 15 năm.
->
Truyện Kiều là tiếng kêu thương của những người lương thiện bị áp bức, bị đoạ
đày.
b. Giá trị nhân đạo:
-
Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước những khổ đau
của con người. Ông xót thương cho Thuý Kiều – một người con gái tài sắc mà lâm
vào cảnh bị đoạ đầy “Thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần”.
-
Là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất cao đẹp của con người như nhan
sắc, tài hoa, trí dũng, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, vị tha…
-
Ông trân trọng đề cao vẻ đẹp, ước mơ và khát khao chân chính của con người như
về tình yêu, hạnh phúc, công lý, tự do…
-
Ông còn tố cáo các thế lực bạo tàn đã chà đạp lên quyền sống của những con
người lương thiện, khiến họ khổ sở, điêu đứng.
->
Phải là người giàu lòng yêu thương, biết trân trọng và đặt niềm tin vào con
người Nguyễn Du mới sáng tạo nên Truyện Kiều với giá trị nhân đạo lớn lao như
thế.
2.
Giá trị nghệ thuật:
Truyện Kiều được coi là đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn
Du.
-
Về ngôn ngữ: là ngôn ngữ văn học hết sức giàu và đẹp, đạt đến đỉnh
cao ngôn ngữ nghệ thuật.
-
Tiếng Việt trong Truyện Kiều không chỉ có chức năng biểu đạt (phản ánh), biểu
cảm (bộclộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).
-
Với truyện Kiều, nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc.
+
Ngôn ngữ kể chuyện có 3 hình thức: trực tiếp (lời nhân vật), gián tiếp
(lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật).
Nhân vật trong truyện xuất hiện với cả con người hành động và con người cảm
nghĩ, có biểu hiện bên ngoài và thế giới bên trong sâu thẳm.
+
Thành công ở thể loại tự sự, có nhiều cách tân sáng tạo, phát triển vượt
bậc trong ngôn ngữ thơ và thể thơ truyền thống.
+
Về nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc hoạ nhân vật qua phương thức tự sự, miêu
tả chỉ bằng vài nét chấm phá mỗi nhân vật trong Truyện Kiều hiện lên như một chân
dung sống động. Cách xây dựng nhân vật chính diện thường được xây dựng
theo lối lý tưởng hoá, được miêu tả bằng những biện pháp ước lệ, nhưng rất
sinh động. Nhân vật phản diện của Nguyễn Du chủ yếu được khắc hoạ theo lối hiện
thực hoá, bằng bút pháp tả thực, cụ thể và rất hiện thực (miêu tả qua
ngoại hình, ngôn ngữ, hành động… của nhân vật).
-
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, bên cạnh bức tranh thiên
nhiên chân thực sinh động (Cảnh ngày xuân), có những bức tranh tả cảnh
ngụ tình đặc sắc (Kiều ở lầu Ngưng Bích).
B. Một số nội dung cụ thể
I. Nghệ thuật miêu tả:
1.
Nghệ thuật miêu tả:
a. Nhân vật chính diện:
Câu 1:
Chép
thuộc "Chị em Thuý Kiều”:
Đầu lòng hai ả tố Nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Câu 2: Vị trí đoạn trích
Vị
trí đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”: nằm ở phần mở đầu của phần thứ nhất: gặp gỡ và đính ước. Khi giới thiệu gia
đình Thuý Kiều, tác giả tập trung miêu tả tài sắc hai chị em thuý vân, Thuý
Kiều.
Câu 3: Kết thúc đoạn trích: 4 phần
+
Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thuý Kiều.
+
Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thuý Vân.
+
Mười hai câu còn lại: gợi tả vẻ đẹp thuý Kiều.
+
Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
Câu 4: Giá trị nội dung và nghệ thuật:
Giá
trị nội dung “Chị em Thuý Kiều” là khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị
em Thuý Kiều, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh
của Thuý Kiều là biểu hiện của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn Du.
Giá
trị nghệ thuật: Thuý Kiều, Thuý Vân và nhân vật chính diện, thuộc kiểu nhân vật
lý tưởng trong Truyện Kiều. Để khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật lý tưởng, Nguyễn Du
đã sử dụng bút pháp ước lệ - lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp của
con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ yếu là tả để gợi. Sử
dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật hình ảnh Thuý Kiều.
Câu 5: Giải nghĩa từ ngữ:
- Tố
Nga: chỉ người con gái đẹp.
- Mai
cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần:
tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên
dáng, thanh cao, trong trắng.
- Khuôn
trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như trăng tròn; nét ngài nở nang: ý
nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu
của Thúy Vân. Thành ngữ Tiếng Việt có câu “mắt phượng mày ngài”.
- Đoan
trang: nghiêm trang, đứng đắn
(chỉ nói về người phụ nữ)…
- Làn
thu thuỷ: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ
ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát như nét
núi mùa xuân.
- Nghiêng
nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại
nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người
ta bị nghiêng ngả. ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho
người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
Câu 6:
Nguyễn
Du đã miêu tả con người theo lối nghệ thuật mang tính ước lệ rất quen thuộc
trong một kết cấu chặt chẽ, với ngòi bút tinh tế:
a. Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát về nhân
vật.
Với
bút pháp ước lệ, tác giả đã gợi được vẻ thanh cao, duyên dáng, trong
trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thuý Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” cốt cách như mai, tinh thần như
tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn hảo mang tính hình thể, tâm hồn cả hai đều đẹp “mười
phân vẹn mười” nhưng mỗi người lại mang vẻ đẹp riêng.
b. Bốn câu tiếp theo: miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân.
-
Câu thơ mở đầu vừa giới thiệu Thuý Vân vừa khái quát vẻ đẹp của
nhân vật. Hai chữ “trang trọng” gợi vẻ cao sang, quý phái.
-
Với bút pháp nghệ thuật ước lệ, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những
thứ cao đẹp nhất trên đời, trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Bằng thủ pháp liệt
kê chân dung Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày,
làn da, mái tóc đến nụ cười, giọng nói, phong thái ứng xử nghiêm trang, đứng
đắn. Mỗi chi tiết được miêu tả cụ thể hơn nhờ bổ ngữ, định ngữ, hình ảnh so
sánh ẩn dụ.
-
Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân bằng nghệ thuật so sánh ẩn dụ
và ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi
sáng như mặt trăng; lông mày sắc nét như con ngài; miệng cười tươi thắm như
hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc; mái tóc đen óng ả hơn
mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết (khuôn trăng… màu da).
- Chân
dung Thuý Vân là chân dung mang tính cách, số phận. Vân đẹp hơn những gì mĩ
lệ nhất của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp êm đềm với xung quanh: mây thua,
tuyết nhường. Thuý Vân hẳn có một tính cách ung dung, điềm đạm, một cuộc đời
bình yên không sóng gió.
c. 12 câu tiếp theo: tả vẻ đẹp và tài hoa của
Kiều.
-
Câu thơ đầu đã khái quát đặc điểm của nhân vật: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm
hồn.
-
Gợi tả vẻ đẹp của Kiều tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ: thu
thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Đặc biệt khi hoạ bức chân dung Kiều, tác giả tập
trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt. Hình ảnh “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”
là hình ảnh mang tính ước lệ, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ,
gợi lên một đôi mắt đẹp trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu,
đôi lông mày thanh tú như nét mùa xuân. Đôi mắt đó là cửa sổ tâm hồn, thể hiện
phần tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Tả Kiều, tác giả không cụ thể như khi tả
Vân mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối điểm nhãn - vẽ hồn cho nhân vật, gợi
lên vẻ đẹp chung của một trang giai nhân tuyệt sắc. Vẻ đẹp ấy làm cho hoa ghen,
liễu hờn, nước nghiêng thành đổ. Nguyễn Du không miêu tả trực tiếp nhân vật mà
miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê trước vẻ đẹp đó, cho thấy đây
là vẻ đẹp có chiều sâu, có sức quyến rũ, cuốn hút lạ lùng.
- Vẻ
đẹp tiềm ẩn phẩm chất bên trong cao quý, cái tài, cái tình đặc biệt của
Kiều. Tả Thuý Vân chỉ tả nhan sắc, còn tả Thuý Kiều, tác giả tả sắc một phần
thì dành hai phần để tả tài. Kiều rất mực thông minh và đa tài "Thông minh vốn sẵn tính trời". Tài của Kiều đạt đến
mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, hội đủ cầm, kỳ, thi, hoạ “Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm”.
Tác
giả đặc tả tài đàn – là sở trường, năng khiếu, nghề riêng của nàng “Cung thương lầu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn
đứt hồ cầm một trương”. Không chỉ vậy, nàng còn giỏi sáng tác nhạc. Cung
đàn Bạc mện của Kiều là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm “Khúc nhà tay lựa nên chương, Một thiên bạc
mệnh lại càng não nhân”.
Tả
tài, Nguyễn Du thể hiện được cả cái tình của Kiều.
-
Chân dung Thuý Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp khi cho
tạo hoá phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kị, tài hoa trí tuệ thiên bẩm "lai
bậc" đủ mùi, cả cái tâm hồn đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi
định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, gian khổ bởi "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau". "Trời xanh quen thói mà hồng đánh ghen".
Cuộc đời Kiều hẳn là cuộc đời hồng nhan bạc mệnh.
*
Có thể nói tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thuý Kiều: Tác giả miêu
tả chân dung Thuý Vân trước để làm nổi bật chân dung Thuý Kiều, ca ngợi cả hai
nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người: chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, trong đó
dành tới 12 câu thơ để tả Kiều, Vân chỉ tả nhan sắc, Kiều cả tài , sắc, tình
đều đặc đặc tả. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy.
d. 4 câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống
hai chị em Thuý Kiều.
-
Họ sống phong lưu, khuôn phép, đức hạnh, theo đúng khuôn khổ của lễ giáo
phong kiến. Tuy cả hai đều đã đến tuổi búi tóc cài trâm nhưng vẫn "trướng rũ màn che, tường đông ong bướm đi về
mặc ai".
-
Hai câu cuối trong sáng, đằm thắm như chở che, bao bọc cho hai chị em hai bồn
hoa vẫn còn phong nhuỵ trong cảnh "Êm
đềm trướng rủ màn che".
Tóm
lại, đoạn trích đã thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du
khắc hoạ nét riêng về nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút
pháp nghệ thuật cổ điển.
Câu 7: Trong hai bức chân dung của Thúy Vân và
Thúy Kiều, em thấy bức chân dung nào nổi bật hơn, vì sao ?
-
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ để ca ngợi cả hai chị em Thúy vân, Thúy
Kiều nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người, rõ ràng bức chân dung của Thúy Kiều nổi bật
hơn.
Chân
dung Thuý Vân
|
Chân
dung Thuý Kiều
|
- Dùng 4 câu thơ để tả Vân.
- Với Vân chỉ tả ngoại hình theo
thủ pháp liệt kê.
- Với Vân chỉ tả sắc.
- Miêu tả chân dung Thuý Vân
trước để làm nổi bật chân dung Thuý Kiều.
|
- 12 câu để tả Kiều
- Đặc tả đôi mắt của Kiều theo
lối điểm nhãn vẽ - vẽ hồn cho nhân vật, gợi nhiều hơn tả - với Kiều tả cả sắc,
tài, tâm.
|
Tóm lại:
- Đặc tả vẻ đẹp của
Thúy Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả các chi tiết trên khuôn mặt nàng bằng bút
pháp ước lệ và nghệ thuật liệt kê -> Thuý Vân xinh đẹp, thùy mị đoan trang,
phúc hậu và rất khiêm nhường.
- Đặc tả vẻ đẹp của
Thuý Kiều, Nguyễn Du tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của tài và sắc.
+ Tác giả miêu tả khái
quát: “Sắc
sảo mặn mà”.
Một vừa hai phải ai ơi
Tài tình chi lắm…
+ Đặc tả vẻ đẹp đôi
mắt: vừa gợi vẻ đẹp hình thức, vừa gợi vẻ đẹp tâm hồn (hình ảnh ước lệ).
+ Dùng điển cố “Nghiêng nước nghiêng thành” diễn tả vẻ
đẹp hoàn hảo có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
+ Tài năng: phong phú
đa dạng, đều đạt tới mức lý tưởng.
- Cái tài của Nguyễn Du
biểu hiện ở chỗ miêu tả ngoại hình nhân vật làm hiện lên vẻ đẹp tính cách và
tâm hồn. Và đằng sau những tín hiệu ngôn ngữ lại là dự báo về số phận nhân vật.
+ "Thua,
nhường" -> Thuý Vân có cuộc sống êm đềm, suôn sẻ.
+ "Hờn,
ghen" -> Thuý Kiều bị thiên nhiên đố kỵ, ganh ghét -> số
phận long đong, bị vùi dập.
Câu 8: Cảm hứng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du thể hiện
qua đoạn trích:
- Trong truyện Kiều,
một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo là việc ca ngợi, đề cao
những giá trị, phẩm chất của con người như nhan sắc, tài hoa, nhân phẩm,
khát vọng, ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân.
- Một trong những ví dụ
điển hình của cảm hứng nhân đạo ấy là đoạn trích "Chị em Thuý Kiều".
Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh đẹp nhất, những ngôn từ hoa mĩ nhất để
miêu tả vẻ đẹp con người, phù hợp với cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca giá
trị con người. Tác giả còn dư cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của
Kiều. Đó chính là cảm hứng nhân văn cao cả của Nguyễn Du xuất phát từ lòng đồng
cảm sâu sắc với mọi người.
Câu 9: So sánh đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” với trích đoạn trong “Kim Vân Kiều
truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ta càng thấy được sự sáng tạo tài tình của
Nguyễn Du.
- Nếu như Thanh Tâm Tài
Nhân kể về hai chị em Thuý Kiều bằng văn xuôi thì Nguyễn Du miêu tả họ bằng
thơ lục bát.
- Thanh Tâm Tài Nhân
chủ yếu là kể về hai chị em Kiều; còn Nguyễn Du thì thiên về gợi tả sắc đẹp
Thuý Vân, tài sắc Thuý Kiều.
- Thanh Tâm Tài Nhân tả
Kiều trước, Vân sau: “Thuý Kiều mày nhỏ
mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào. Còn Thúy Vân thì
tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng khó mô tả”.
Đọc lên ta cảm giác như tác giả tập trung vào Vân hơn, hình ảnh của Vân nổi bật
hơn. Ngay ở đoạn giới thiệu đầu truyện, hình ảnh Kiều cũng không thật sự nổi
bật. Còn Nguyễn Du tả Vân trước làm nền tô đậm thêm vẻ đẹp của Kiều theo thủ
pháp nghệ thuật đòn bẩy.
- Khi miêu tả, Nguyễn
Du đặc biệt chú trọng đến tài năng của Kiều, qua việc miêu tả ngoại
hình, tài hoa còn thể hiện được tấm lòng, tính cách và dự bảo được số phận nhân
vật. Thanh Tâm Tài Nhân không làm được điều đó, bút pháp cá thể hoá nhân
vật của ông không rõ nét bằng của Nguyễn Du.
Nhưng sự khác biệt này
đã giải thích vì sao cùng một cốt chuyện mà “Kim Vân Kiều truyện” chỉ
là cuốn sách bình thường, vô danh còn “Truyện Kiều” được coi là một kiệt
tác, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là tác giả không có danh tiếng, ít người biết đến
trong khi Nguyễn Du là một tác giả lớn, một đại thi hào.
b. Nhân vật phản diện
(Mã Giám Sinh):
Câu
1:
Chép thuộc đoạn trích “Mã
Giám Sinh mua Kiều”:
Gần miền có một
mụ nào,
Đưa người viễn
khách tìm vào vấn danh.
Hỏi tên, rằng:
“Mã Giám Sinh”.
Hỏi quê, rằng:
“Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Quá niên trạc
ngoại tứ tuần.
Mày râu nhẵn
nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau
tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối
rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi
tót sỗ sàng,
Buồng trong mới
đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm
tức nỗi nhà,
Thềm hoa một
bước, lệ hoa mấy hàng.
Ngại ngùng dợn
gió e sương,
Ngừng hoa bóng
thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc
bắt tay,
Nét buồn như
cúc, điệu gầy như mai.
Đắn đo cân sắc
cân tài,
ép cung cầm
nguyệt, thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ
một dưa,
Bằng long khách
mới tuỳ cơ dặt dìu.
Rằng: “Mua ngọc
đến Lam Kiều,
Sính nghi xin
dạy bao nhiêu cho tường?”.
Mối rằng : "Giá đáng nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ
lượng người thương dám nài”.
Cò kè bớt một
them hai,
Giờ lâu ngã giá
vàng ngoài bốn trăm.
Câu 2: Vị trí đoạn trích: Đoạn thơ nằm ở đầu phần thứ hai Gia biến và lưu lạc trong kết cấu
Truyện Kiều, mở đầu kiếp đoạn trường của người con gái họ Vương.
Sau khi gia đình Kiều
bị tên bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị bắt giữ, bị đánh đập dã man,
nhà cửa bị sai nha lục soát, vơ vét hết của cải. Thuý Kiều quyết định bán mình
để lấy tiền cứu cha và gia đình khỏi tai hoạ. Đoạn này nói về việc Mã Giám
Sinh đến mua Kiều qua mai mối mách bảo.
Câu 3: Giá trị nội dung và nghệ thuật.
· Giá trị nội
dung: Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một bức tranh hiện thực về xã
hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai
phương diện: vừa lên án các thế lực xấu xa, tàn bạo vừa thương cảm, xót xa
trước sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của người phụ nữ bị trà đạp.
· Giá trị nghệ
thuật: Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều còn cho thấy tài năng nghệ thuật
của Nguyễn Du: miêu tả nhân vật phản diện bằng ngòi bút hiện thực, khắc
hoạ tính cách nhân vật qua diện mạo, cử chỉ (khác với nhân vật chính diện bằng
bút pháp ước lệ lý tưởng hoá nhân vật).
Câu 4: Giải nghĩa từ:
- Viễn khách: khách ở xa đến.
- Mã Giám Sinh: Giám Sinh họ Mã. Giám Sinh là tên học trò ở Quốc Tử
Giám, trường lớn ở kinh đô thời xưa. Giám Sinh cũng có khi chỉ chức giám sinh
người ta mua của triều đình.
- Nét buồn như cúc điệu gầy như mai: hai hình ảnh so sánh dùng để tả
người con gái đẹp lúc buồn rầu.
- ép cung cầm nguyệt: ép gảy đàn.
- Thử bài quạt thơ: thử tài làm thơ của Kiều khi yêu cầu nàng đề thơ
trên quạt.
Câu
5:
Bút pháp hiện thực miêu
tả nhân vật phản diện Mã Giám Sinh hoàn chỉnh cả về diện mạo và tính cách:
a.
Về diện mạo, cử chỉ:
- Lời nói cộc lốc,
vô văn hoá. “Hỏi tên rằng… - Hỏi quê rằng…” câu trả lời nhát gừng không
có chủ ngữ, không thèm thưa gửi.
- Diện mạo: dù
đã ngoài bốn mươi cái tuổi “Quá niên trạc
ngoại tứ tuần” mà ngày ấy đã phải lên chức ông - nhưng Mã Giám Sinh vẫn cố
tỏ ra trẻ trung để đi cưới vợ “Mày
râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” với diện mạo của một gã trai râu cạo “nhẵn nhụi” (từ “nhẵn nhụi” thường được
dùng cho đồ vật hơn là cho người), ăn mặc “bảnh bao”, đỏm dáng, chải chuốt
thái quá, có thể nói là diêm dúa, thành lố bịch, giả dối, không có dáng của
một bậc quân tử.
- Cảnh thầy tớ nhặng
xị, nhâng nháo: “trước thầy sau tớ lao xao”. Có lẽ
đây đều cùng một phường buôn người nên thầy tớ không phân minh.
- Khi vào nhà, cử
chỉ của hắn thật thô lỗ, quen thói “thị của khinh người”: “ghế
trên ngồi tót sỗ sàng”. Ghế trên là ghế dành cho bậc cao niên, trưởng
bối, Mã Giám Sinh đi hỏi vợ là hàng con cháu mà lại ngồi vào đó, còn với cử chỉ
rất nhanh và sỗ sàng. “ngồi tót” là một từ ngữ rất tượng hình miêu tả hành động
vô văn hoá ấy. Chi tiết này đã tố cáo Mã Giám Sinh đích thực là một kẻ vô
học.
b.
Về bản chất, Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con buôn lưu manh với đặc
tính giả dối, bất nhân và vì tiền.
- Giả dối từ lai
lịch xuất thân mù mờ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong vai người có học đi mua
tì thiếp, tên họ và quê quán đều chẳng mấy rõ ràng: Mã Giám Sinh có thể hiểu là
học sinh trường Quốc Tử Giám, cũng có thể là chức giám sinh mua được của triều
đình, không rõ hắn thuộc loại nào; quê ở xa “viễn khách” mà lại nói “cũng
gần”. Như vậy rõ ràng hắn đã hai lần nói dối để che giấu tung tích và
dễ bề lừa gạt. Đến tướng mạo, tính danh cũng giả dối, tuổi tác đã nhiều
nhưng lại cố tỏ ra tô vẽ cho trẻ, ra vẻ thư sinh phong lưu, lịch sự mà
“trước thầy sau tớ lao xao” rất láo nháo, ô hợp.
- Bản chất bất nhân
vì tiền của Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua bán Thuý Kiều. Bất nhân
trong hành động, thái độ đối xử với Kiều lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau,
nhan sắc, tài hoa của Kiều – hắn coi Kiều như một món hàng, coi sắc, tài của
nàng chỉ như giá trị của hàng hoá - cái có thể khiến hắn kiếm lời.
- Sau khi đã đắn đo cân
sắc cân tài, ép tài đàn “ép cung cầm
nguyệt”, thử tài thơ “thử bài quạt
thơ”, bằng lòng vừa ý, hắn mới “tuỳ
cơ dắt dìu”. Bất nhân trong tâm lý lạnh lùng, vô cảm trước gia cảnh của
Kiều và tâm lý mãn nguyện, hợm hĩnh: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Lời nói lúc đầu nghe có vẻ
văn hoa, lịch sự, biết người biết của: “Rằng
mua ngọc đến Lam Kiều – Sinh nghe xin dạy bao nhiêu cho tường?”, nhưng cũng
chỉ được có một câu và sự mua bán vẫn lộ liễu. Với con buôn, tiền nong là
chuyện sinh tử nên đến lúc này hắn buộc phải nói nhiều để mặc cả, dìm giá,
tìm cách mua hàng với giá “hời nhất”: “cò
kè bớt một thêm hai” đến “giờ lâu” mới “ngã giá”. Câu thơ gợi cảnh kẻ mua,
người bán đưa đẩy món hàng, túi tiền được cởi ra, thát vào, nâng lên, đặt
xuống. Chi tiết mặc cả một cách ti tiện và trắng trợn vừa thể hiện thực
chất màn kịch “lễ vấn danh” chỉ là cảnh buôn thịt bán người trắng trợn, vừa tố
cáo Mã Giám Sinh đích thị là kẻ buôn người lọc lõi đáng ghê tởm, cái mặt
nạ hỏi vợ của hắn lúc đầu đã rơi tuột từ lúc nào.
· Nhân vật phản diện Mã Giám Sinh được miêu tả bằng ngôn
ngữ trực diện, bút pháp hiện thực. Nguyễn Du kết hợp nghệ thuật kể
chuyện với miêu tả ngoại hình, cử chỉ, ngôn ngữ đối thoại để khắc hoạ tính
cách nhân vật hoàn hảo cả về diện mạo và tính cách, rất cụ thể sinh động, mang
ý nghĩa khái quát về một hạng người giả dối, vô học, bất nhân trong xã hội.
Tất cả làm nổi bật bản
chất con buôn lọc lõi của hắn. Vì tiền, y sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm con
người lương thiện.
Câu 6: Hình ảnh đáng tội nghiệp của Thuý Kiều.
- Chỉ với 6 câu thơ,
Nguyễn Du đã miêu tả được hình ảnh xót xa, tội nghiệp của Kiều. Đang từ
một tiểu thư khuê các, sống yên vui trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, lại
đang say đắm???????? một tai hoạ ập xuống bất ngờ, tàn khốc, nàng phải bán mình
cứu cha, cứu gia đình, bị biến thành một món hàng cho người ta mua bán.
- Là người thông minh,
nhạy cảm, Kiều cảm nhận được cảnh ngộ éo le tủi nhục và nỗi đau đớn ê chề
của mình: “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà -
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”. “Nỗi mình” là nỗi đau phải bán thân,
phải lìa bỏ gia đình, phải lìa bỏ tình yêu với chàng Kim - mối tình tuyệt đẹp
hứa hẹn bao hạnh phúc lứa đôi, phải lìa bỏ tuổi thanh xuân mà không biết sẽ bị
tung vào cuộc đời mưa gió ra sao. Lại cộng thêm “nỗi nhà” là nỗi tức cho
cha mẹ, em út bị vu oan, đánh đập không biết sống chết ra sao, tài sản bị cướp
phá, nhà tan cửa nát. Câu thơ đã khái quát được nỗi thương tâm của Kiều. Nàng
đau đớn tới mức mỗi bước đi là chân như muốn khuỵu xuống, mấy hàng nước mắt lã
chã tuôn rơi: “thềm hoa một bước, lệ hoa
mấy hàng”. Nàng thấm thía nỗi nhục, nỗi thẹn của mình nên “ngừng hao bóng thẹn trông gương mặt dày”.
Nàng thấm thía nỗi nhục, nỗi thẹn của mình nên “ngừng hoa bóng thẹn trông gương
mặt này”. Con người càng ý thức về phẩm giá bản thân thì càng đau đớn, nhục nhã
khi nhân phẩm bị vùi dập, xúc phạm. Vừa lo sợ cho tương lai, Kiều vừa thấy mình
“dơ dáng dại hình”. Tất cả những nỗi đau ấy khiến Kiều như người mất hồn,
trở nên tê dại, thẫn thờ, câm lặng suốt buổi mua bán.
- Hình ảnh Kiều thật
tiều tuỵ, hao gầy “Nét buồn như cúc,
điệu gầy như mai”. Kiều giống như cành mai, bông cúc bị sóng gió dập vùi,
gầy yếu xác xơ. Đằng sau dáng vẻ ấy một tâm trạng tê tái, đau đớn, không nói
nên lời.
Câu 7: Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện qua
đoạn trích:
- Tác giả đã tỏ thái
độ khinh bỉ, căm phẫn sâu sắc đối với bọn buôn người; tố cáo thực trạng xã
hội xấu xa, lên án thế lực đồng tiền chà đạp lên nhân phẩm, tài sắc con người,
làm khuynh đảo cả trật tự xã hội, làm thoái hoá đạo đức con người qua cách tác
giả miêu tả nhân vật Mã Giám Sinh.
- Thái độ ấy được bộ
lộ qua cách miêu tả nhân vật phản diện bằng ngôn ngữ tả thực, cách dùng từ ngữ
mỉa mai, châm biếm, lên án: bộ mặt mày râu nhẵn nhụi cho thấy sự thiếu tự
nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Hai chữ “nhẵn nhụi” gợi cảm
giác về một sự trơ, phẳng lì, bất cận nhân tình. áo quần bảnh bao là áo quần
trưng diện cũng thiếu tự nhiên. Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần
trẻ em chứ ít dùng cho người lớn. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một
người đã chạc ngoại tứ tuần lại tỉa tót công phu, cố tô vẽ cho mình ra dáng
trẻ. Hành động gật gù tán thưởng món hàng: “Mặn nồng một vẻ một ưa” chẳng khác
gì cử chỉ đê tiện “lẩm nhẩm gật đầu” của Sở Khanh sau này.
- Thái độ của Nguyễn Du
tố cáo thế lực đồng tiền chà đạp lên con người thể hiện qua lời nhận xét:
“Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong”.
Lời nhận xét có vẻ khách quan nhưng chứa đựng trong đó cả sự chua xót lẫn căm
phẫn. Đồng tiền biến nhan sắc thành món hàng tủi nhục, biến kẻ táng tận lương
thâm thành kẻ mãn nguyện, tự đắc. Thế lực đồng tiền cùng với thế lực lưu manh
hùa với nhau tàn phá gia đình Kiêu, tàn phá cuộc đời Kiều.
- Nguyễn Du còn thể
hiện niềm cảm thương sâu sắc trước thực trạng tài sắc con người bị hạ thấp, bị
chà đạp, bị biến thành hàng hoá; cảm thông với nỗi đau của những con người
phải chịu bao nhiêu nghịch cảnh trong xã hội phong kiến bất nhân ngang trái.
Tác giả bộc lộ thái độ ấy qua ngòi bút miêu tả ước lệ, nhà thơ như hoá
thân vào nhân vật để nói lên nỗi đau đớn, tủi hổ của Kiều.
2. Nghệ thuật tả cảnh:
a.
Tả cảnh thiên nhiên:
Chép thuộc "Cảnh
ngày xuân":
Ngày xuân con én
đưa thoi,
Thiều quang chín
chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận
chân trời,
Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong
tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ,
hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức
yến anh,
Chị em sắm sửa
bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử
giai nhân
Ngựa xe như
nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò
đống kéo lên,
Thoi vàng vó
rắc, tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả
về tây,
Chị em thơ thẩn
dan tay ra về.
Bước dần theo
ngọn tiểu khê,
Lần xem phong
cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng
nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ
cuối ghềnh bắc ngang.
Câu 2:
Vị trí: “Cảnh
ngày xuân” là đoạn thơ tả cảnh ngày mùa xuân trong tiết Thanh minh và
cảnh du xuân của chị em Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều, trước
đoạn Kiều gặp nấm mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đoạn trích là bức tranh thiên
nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt.
Câu 3: Kết cấu đoạn trích: theo trình tự thời gian của cuộc du
xuân.
+ Bốn câu đầu: Khung
cảnh ngày xuân.
+ Tám câu tiếp: khung
cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
+ Sáu câu cuối: cảnh
chị em Kiều du xuân trở vể.
Câu 4: Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật.
Giá
trị nội dung của “Cảnh ngày
xuân”: là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và lễ hội mùa
xuân tưng bừng, náo nhiệt.
Giá
trị nghệ thuật: sử dụng nhiều
hình ảnh đắt giá, sáng tạo; nhiều từ láy miêu tả cảnh vật và cũng là tâm trạng
con người; bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình.
Câu 5: Giải nghĩa từ ngữ:
- Thanh minh: tiết vào đầu
tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là đi
viếng và sửa sang lại phần mộ người thân.
- Đạp thanh: dẫm lên cỏ
xanh.
- Tài tử giai nhân: trai
tài, gái sắc.
- áo quần như nêm: nói
người đi lại đông đúc, chật như nêm.
Câu 6: Thành công trong nghệ thuật miêu tả thiên
nhiên:
a.
Bốn câu thơ đầu: Tác giả miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp riêng của mùa xuân.
- Hai câu đầu là hình
ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én chao liệng
trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh xuân tươi tắn trong sáng. Đồng thời, nhà
thơ cũng ngỏ ý ngày xuân qua nhanh quá nhưng “con én đưa thoi”, chín mươi ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi”.
- Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mĩ: “Cỏ non xanh tận chân trời - Cành lê trắng
điểm một vài bông hoa”. Đây chỉ là chân dung của cảnh ngày xuân, chỉ giản
đơn có cỏ xanh, hoa trắng mà đủ cảnh, đủ màu, làm hiện lên cả một không
gian mùa xuân kháng đạt. ở đây, Nguyễn Du học tập hai câu thơ cổ Trung
Quốc: “Phương thảo liên thiên bích - Lê chi sổ điểm hoa”, nhưng khi
đưa vào bài thơ của mình, tác giả đã rất sáng tạo. Câu thơ Trung Quốc dùng hình
ảnh “cỏ thơm” (phương thảo) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ xanh”
thiên về màu sắc. Đó là màu xanh nhạt pha với vàng chanh tươi tắn hợp với màu
lam trong snág của nền trời buổi chiều xuân làm thành gam nền cho bức tranh,
trên đó điểm xuyết những đốm trắng hoa lê. Bức tranh dung hoà những sắc độ lạnh
mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới của mùa xuân. Chữ “trắng” đảo lên
trước tạo bất ngờ sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết như kết tinh
những tinh hoa của trời đất. Chữ “điểm” gợi bàn tay người hoạ sĩ vẽ nên thơ nên
hoa, bàn tay tạo hoá tô điểm cho cảnh xuân tươi, làm bức tranh trở nên có
hồn, sống động.
- Hai câu thơ tả cảnh
thiên nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu
chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Tác giả đã rất thành công trong
bút pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con
người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn,
hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.
b. Sáu câu thơ cuối: gợi tả khung cảnh chị em Thuý Kiều du
xuân trở về.
- Cảnh vẫn mang cái
thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc
ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng.
- Bóng tịch dương đã
chênh chếch xế chiều: “Tà tà bóng ngả về
đây”, dòng nước uốn quanh. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật
mà dường như con người cũng chìm trong một cảm giác bâng khuâng khó tả.
Cuộc du ngoạn xuân cảnh đã tàn, lễ hội tưng bừng, náo nhiệt đã chấm dứt, tâm
hồn con người như cũng chuyển điệu cùng cảnh vật, bước chân người thơ
thẩn. Cảnh như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, không
gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phảng phất buồn. Tâm trạng con
người có cái bâng khuâng xao xuyến về cuộc du xuân đã tàn, có cả linh cảm về
việc gặp gỡ nấm mộ Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng “phong tư tài mạo tót
vời”.
- Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ láy như nao nao, tà tà, thanh thanh
không chỉ biểu đạt sức thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người, đặc
biệt hai chữ “nao nao” thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu. Hai chữ “thơ thẩn”
có sức gợi rất lớn, chị em Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng
buồn. “Dan tay” tưởng là vui
nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn không nói hết. Cảm giá bâng khuâng xao
xuyến về một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết
với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu
tâm trạng lên cảnh vật.
Đoạn thơ còn hay bởi đã
sử dụng bút pháp cổ điển: tả cảnh gắn với tả tình, tả cảnh ngụ tình,
tình và cảnh tương hợp.
Tóm lại:
- Đoạn 4 câu đầu và 6
câu cuối bài “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mùa
xuân thật đẹp. Nhà thơ điểm vài chi tiết, tả cảnh để gợi là chính.
- Từ ngữ hình ảnh giàu
chất tạo hình.
- Thiên nhiên được miêu
tả trong những thời gian, thời điểm khác nhau.
Câu 7: Cảm nhận về khung cảnh lễ hội trong tiết
Thanh minh (8 câu giữa)
- Nguyễn Du đã rất tài
tình khi tách hai từ Lễ hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một
lúc: Lễ tảo mộ, Hội đạp thanh.
- Không khí lễ hội được
gợi tả từ một hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm:
+ Đoạn thơ sử dụng
nhiều tính từ (nô nức, gần xa, ngổn ngang) làm rõ hơn tâm trạng người đi
hội.
+ Nhiều danh từ ghép
(yến anh, tài tử, giai nhân, chị em, ngựa xe, áo quần) gợi tả sự đông vui tấp
nập.
+ Và nhiều động từ (sắm
sửa, dập dìu) gợi được sự rộn ràng của ngày hội.
- Thông qua buổi du xuân
của chị em Thuý Kiều, tác giả khắc học hình ảnh một truyền thống văn hoá lễ
hội xa xưa. Cụm từ “nô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên hình ảnh từng đoàn nam
thanh, nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én, chim oanh bay ríu rít.
Trong lễ hội mùa xuân náo nhiệt nổi bật nghững nam thanh nữ tú, những
“tài tử giai nhân” tay trong tay dạo chơi, niềm vui lễ hội như bao trùm cả nhân
gian. Những so sánh rất giản dị “ngựa
xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự đông vui.
- “Lễ là tảo mộ” - lễ thăm viếng, sửa sang, quét tước phần mộ người
thân; đốt vàng vó, sắc tiền giá để tưởng nhớ những người đã khuất. “Hội
là đạp thanh” – vui chơi chốn đồng quê, đạp lên những thảm cỏ xanh,
là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi ta hồng của mai sau. “Lễ”
là hồi ức và tưởng niệm quá khứ theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội”
là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời. Lễ và hội trong
tiết Thanh minh là một sự giao hoà độc đáo. Chứng tỏ nhà thơ rất yêu
quý, trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
b. Tả cảnh ngụ tình:
Câu 1: Chép thuộc "Kiều ở lầu Ngưng Bích":
Trước lầu Ngưng
Bích khoá xuân,
Vẻ non xa, tấm
trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát
xa trông,
Cát vàng cồn nọ
bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm
đèn khuya,
Nửa tình nửa
cảnh như chia tấm lòng.
Tưởng người dưới
nguyệt chén đồng,
Tin sương luống
những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể
bơ vơ,
Tấm son gột rửa
bao giờ cho phai.
Xót người tựa
cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp
lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy
nắng mưa,
Có khi gốc tử đã
vừa người ôm.
Buồn trông cửa
bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp
thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn
nước mới ra.
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Câu 2 : Vị trí đoạn trích:
Đoạn
trích nằm ở phần thứ hai Gia biến và
lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú bà mắng
nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận
cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, phẫn uất, tủi nhục nàng định tự vẫn. Tú bà sợ mất
vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn
khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú bà đưa Kiều ra sống riêng
ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện
hơn, tàn bạo hơn.
Câu 3 : Kết cấu đoạn
trích : 3 phần
+
Sáu câu đầu :
hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
+
Tám câu tiếp :
nỗi thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của nàng.
+
Tám câu cuối :
tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.
Câu 4 : Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích :
Giá
trị nội dung "Kiều ở lầu Ngưng Bích": miêu tả chân thực cảnh ngộ
cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng
thuỷ chung, hiếu thảo vị tha của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích.
Giá
trị nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ
tình hay nhất trong "Truyện Kiều".
Câu 5 : Giải nghĩa từ ngữ:
-
Khoá xuân: khoá kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý ngày xưa
không được ra khỏi phòng); ở đây nói việc Kiều bị giam lỏng.
-
Tấm son: tấm lòng son, chỉ tấm lòng thuỷ chung gắn bó.
-
Duyềnh (cũng gọi là doành): vụng (vũng) sông hoặc vụng biển.
Câu 6: Hoàn cảnh và tâm
trạng của Kiều thể hiện qua 6 câu thơ đầu:
-
Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là bị giam lỏng (khoá xuân).
-
Nàng trơ trợi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng
gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời
nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi
bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng
hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người.
Hình
ảnh “non
xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà
cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn
ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
-
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian
tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi
cô đơn khiến Kiều càng bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi “bẽ
bàng mây sớm đèn khuya” sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới
lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ:
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.
Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được.
Câu 7: Tâm trạng nhớ
thương Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ của Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm:
* Kiều
nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ sau. Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là
không đúng với truyền thống dân tộc, nhưng thật ra lại là rất hợp lý.
Kiều bán mình cứu cha và em là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên
nàng cắn rứt khôn nguôi.
*
Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lý do khác nhau nên cách thể
hiện cũng khác nhau:
+
Nhớ Kim Trọng: Kiều “tưởng” như thấy lại kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện,
đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén
đồng”. Cái đêm ấy hình như mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim
Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”.
Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm
mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau
đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không nguôi nhớ
thương Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã
bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ
chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.
+
Nhớ cha mẹ: nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê
nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Nàng xót
thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai
em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả
đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa
cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên
lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận
mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.
*
Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng.
Hoàn cảnh của nàng lúc này thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ bản
thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất. Trái tim nàng
thật giàu yêu thương giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người tình thuỷ
chung, một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý.
Câu 8: Bút pháp tả cảnh
ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu cuối “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: Nghệ thuật tử
cảnh ngụ tình:
-
Đoạn thơ này được xem là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn
chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều – Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả
cảnh ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc hoạ tâm
trọng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
-
Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng
thời là một ẩn dụ về tâm trạng của người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều
những nỗi buồn khác nhau, với những lý do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã
đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc
lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
-
Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn
đều được tác giả khắc hoạ qua điệp từ “buồn
trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông
ngáng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng.
“Buồn trông” có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ bút tầm nhìn, có cả dự cảm
hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lại bước giữa cuộc đời ngang ngược.
Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn
với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy
chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở
câu cuối tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp
lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở
thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.
Cảch 1: Buồn
trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm
xa xa.
Một
cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều.
Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói
cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của
hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương.
Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ
mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.
Cảnh 2: Buồn
trông ngọn nước mới ra,
Hoa trôi man mác biết là về
đâu?
Những
cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa khi Kiều càng buồn hơn bởi
nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm
bảy nổi giữa sóng nước cuộc đời, không biết rồi sẽ trôi dạt đi đâu, sẽ
bị dập vùi ra sao.
Cảnh 3: Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh
xanh.
Nội
cỏ "rầu rầu", "xanh xanh" - sắc xanh héo úa,
mù mịt, nhạt nhoà trải dài từ chân mây đến mặt đất, còn đâu cái "xanh tận
chân trời" như sác cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm
ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô
quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ.
Cảnh 4: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế
ngồi.
Dường
như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn "gió cuốn mặt
duềnh" làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều
ngồi. Cái âm thanh "ầm ầm tiếng sóng" ấy chính là âm thanh dữ dội
của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp
tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công.
Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rì rào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không
chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực.
Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên
nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm
trạng theo quy luật "Cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
-
Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ
tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh
sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tờt cả là
hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ
dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà
nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".
Tóm
lại:
Cảnh
thiên nhiên là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc của mình.
(Đoạn
trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" - Truyện Kiều).