A.
Kiến thức cơ bản
I.
Tác giả: Ngô Gia Văn
Phái: một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753-1788),
làm quan thời Lê Chiêu Thống, và Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới chiều
nhà Nguyễn.
II.
Tác phẩm:
1. Nhan đề: “Hoàng Lê nhất thống chí” viết bằng
chữ Hán ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn
diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Nó không chỉ dừng lại ở sự thống nhất
của vương triều nhà Lê, mà còn được viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử
đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và
mấy năm đầu thế kỷ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi.
2. Thể loại: (chí là một lối văn ghi chép sự vật,
sự việc).
Cũng có thể xem Hoàng
Lê nhất thống chí là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi.
3. Hoàn cảnh: hồi thứ 14, viết về sự kiện Quang
Trung đại phá quân Thanh.
4. Khái quát nội dung
và nghệ thuật
- Nội dung: Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc,
các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người
anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm
hại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
- Nghệ thuật: Kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách sinh động cụ thể, gây
được ấn tượng mạnh.
5. Đại ý và bố cục:
* Đại ý: Đoạn trích miêu tả chiến thắng lẫy lừng của vua Quang
Trung, sự thảm bại nhục nhã của quân tướng nhà Thanh và số phận lũ vua quan
phản nước, hại dân.
* Bố cục: 3 đoạn
- Đoạn 1: (từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng cháp năm Mậu
Thân (1788)”): Được tin báo quân Thanh
chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm
quân dẹp giặc.
- Đoạn 2: (“Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh… vua Quang
Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành”): Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
- Đoạn 3: (“Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê… cũng lấy làm xấu hổ”): Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình
trạng thảm bại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
6. Tóm tắt hồi 14
“Hoàng Lê nhất thống chí”
- Trước thế mạnh của
giặc, quân Tây Sơn ở Thăng Long, rút quân về Tam Điệp và cho người vào Phủ Xuân
cấp báo với Nguyễn Huệ.
- Nhận được tin ngày
24/11, Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân làm hai đạo thuỷ - bộ.
- Ngày 25 tháng Chạp, làm lễ lên ngôi lấy hiệu
là Quang Trung, trực tiếp chỉ đạo hai đạo quân tiến ra Bắc.
- Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn ra đến Nghệ
An, Quang Trung cho dừng lại một ngày, tuyển thêm hơn 1 vạn tinh binh, mở một
cuộc duyệt binh lớn.
- Ngày 30, quân của Quang Trung ra đến Tam
Điệp, hội cùng Sở và Lân. Quang Trung đã khẳng định :
"Chẳng quá mười ngày có thể đuổi
được người Thanh". Cũng trong ngày 30, giặc giã chưa yên, binh đao hãy
còn mà ông đã nghĩ đến kế sách xây dựng đất nước mười năm sau chiến tranh. Ông
còn mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở thành Thăng Long mở tiệc
lớn. Ngay đêm đó, nghĩa quân lại tiếp tục lên đường. Khi quân Tây Sơn ra đến
sông Thanh Quyết gặp đám do thám của quân Thanh, Quang Trung ra lệnh bắt hết
không để sót một tên.
- Rạng sáng ngày 3 Tết, nghĩa quân bí mật bao vây đồn Hạ Hồi và dùng
mưu để quân Thanh đầu hàng ngay, hạ đồn dễ dàng.
- Rạng sáng ngày mùng 5 Tết, nghĩa quân tấn công đồn Ngọc Hồi. Quân
giặc chống trả quyết liệt, dùng ống phun khói lửa ra nhằm làm ta rối loạn,
nhưng gió lại đổi chiều thành ra chúng tự hại mình. Cuối cùng, quân Thanh phải
chịu đầu hàng, thái thú Điền châu Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử.
- Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung đã dẫn đầu đoàn quân thắng trận tiến
vào Thăng Long. Đám tàn quân của giặc tìm về phía đê Yên Duyên gặp phục binh
của ta, trốn theo đường Vịnh Kiều lại bị quân voi ở Đại áng dồn xuống đầm Mực
giày xáo, chết hàng vạn tên. Một số chạy lên cầu phao, cầu phao đứt, xác người
ngựa chết làm tắc cả khúc sông Nhị Hà. Mùng 4 Tết nghe tin quân Tây Sơn tấn
công, Tôn Sỹ Nghị và Lê Chiêu Thống đã vội vã bỏ lên biên giới phía bắc. Khi
gặp lại nhau, Nghị có vẻ xấu hổ nhưng vẫn huyênh hoang. Cả hai thu nhặt tàn
quân, kéo về đất Bắc.
B.
Phân tích văn bản
I.
Cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung qua
hồi thứ 14 của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô Gia Văn Phái.
Dàn
ý chi tiết
I.
Mở bài :
- "Hoàng
Lê nhất thống chí" là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán
được viết theo thể chương hồi do nhiều tác giả trong Ngô Gia Văn Phái (Ngô Thì
Chí, Ngô Thì Du…) sáng tác. Đây là một bức tranh sâu rộng vừa phản ánh được
sự thối nát, suy tàn của triều đình Lê Trịnh, vừa phản ánh được sự phát triển
của phong trào Tây Sơn.
- Trong hồi thứ 14 của
tác phẩm, hình tượng người anh hùng Quang Trung hiện lên thật cao đẹp
với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người.
II.
Thân bài:
1. Trước hết Quang
Trung là một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán:
- Từ đầu đến cuối đoạn
trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn
có chủ đích và rất quả quyết.
- Nghe tin giặc đã đánh
chiếm đến tận Thăng Long mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao
núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”.
- Rồi chỉ trong vòng
hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, dốc xuất đại binh ra Bắc…
2. Đó là một con người
có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén:
* Ngay khi mấy chục vạn
quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế
khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân
treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để chính danh vị,
lấy niên hiệu là Quang Trung.
Việc lên ngôi đã được
tính kỹ với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn
là “để
yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được dân ủng hộ.
*
Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta:
- Qua lời dụ tướng sĩ
trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “đất nào sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ
ắt khác”. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta: “Từ đời nhà hán đến nay, chúng đã mấy phen
cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu
nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”.
- Quang Trung đã khích
lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại
xâm giành lại độc lập của cha ông ta từ ngàn xưa như: Trưng nữ Vương, Đinh Tiên
Hoàng, Lê Đại Hành…
- Quang Trung đã dự
kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người Phù Lê “thay
lòng đổi dạ” với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính chí tình, vừa
nghiêm khắc: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta
đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu
như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.
* Sáng suốt trong việc
sét đoán bê bối:
- Trong dịp hội quân ở
Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: Ông rất hiểu
việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng” nhưng không hiểu lòng họ, sức mình ít không
địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút
về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn
được ngợi khen.
- Đối với Ngô Thì
Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ “đa mưu túc trí” việc Sở và Lân rút chạy
Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây
cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời
khéo léo để dẹp việc binh đao.
3. Quang Trung là người
có tầm nhìn xa trông rộng:
- Mới khởi binh đánh
giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh
đóng cột “phương lược tiến đánh đã có
tính sẵn”.
- Đang ngồi trên lưng
ngựa, Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10
tới ta hoà bình. Đối với địch, thường thì biết là thắng việc binh đao không
thể dứt ngay được vì xỉ nhục của nước lớn còn đó. Nếu “chờ 10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước
giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.
4. Quang Trung là vị
tướng có tài thao lược hơn người:
- Cuộc hành quân
thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc.
Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch từ
25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tiết ở Thăng Long, trong
thực tế đã vượt mức 2 ngày.
- Hành quân xa, liên tục
như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề cũng là do tài tổ chức của người cầm
quân.
5. Hình ảnh vị vua lẫm
liệt trong chiến trận:
- Vua Quang Trung thân
chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến
dịch thực sự.
- Dưới sự lãnh đạo
tài tình của vị tổng chỉ huy này, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận
thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù.
- Khí thế đội quân làm
cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc hoạ lẫm liệt:
trong cảnh “khói tỏ mù trời, cách gang
tấc không thấy gì” nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
- Hình ảnh người anh
hùng được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt,
nhạy bén, tài dùng binh như thần; là người tổ chức và là linh hồn
của chiến công vĩ đại.
III.
Kết bài
Với ý thức tôn trọng
sự thực lịch sử và ý thức dân tộc, những người trí thức – các tác giả Ngô
Gia Văn Phái là những cựu thần chịu ơn sâu, nghĩa nặng của nhà Lê, nhưng
họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê yếu hèn đã cõng
rắn cắn gà nhà và chiến công lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn, làm nổi
bật hình ảnh vua Quang Trung - người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn
của cả dân tộc. Bởi thế họ đã viết thực và hay đến như vậy về người anh
hùng dân tộc Nguyễn Huệ.
II.
Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu
Thống phản nước, hại dân đã được miêu tả như thế nào? Em có nhận xét gì về lối
văn trần thuật ở đây?
1. Đối lập với hình ảnh
nghĩa quân Tây Sơn là chân dung của kẻ thù xâm lược.
- Tôn Sỹ Nghị kiêu
căng, tự mãn, chủ quan:
+ Kéo quân vào Thăng
Long dễ dàng “ngày đi đêm nghỉ” như “đi trên đất bằng”, cho là vô sự, không
đề phòng gì, chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm.
+ Hơn nữa y còn là một
tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết tình hình thực hư ra sao.
Dù được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước, y vẫn không chút đề phòng suốt mấy
ngày Tết “chỉ chăm chú vào việc yến tiệc
vui mừng, không hề lo chi đến việc bất chắc”, cho quân lính mặc sắc vui
chơi.
- Khi quân Tây Sơn đánh
đến nơi, tướng thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp
mặc giáp… chuồng trước qua cầu phao, quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rời, sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, giày xéo
lên nhau mà chết”, “quân sĩ các
doanh nghe thấy đều hoảng hốt, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông,
xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều”, “đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”.
Cả đội binh hùng, tướng mạnh, chỉ quen diễu võ dương oai bây giờ chỉ còn biết
tháo chạy, mạnh ai nấy chạy, “đêm ngày đi
gấp, không dám nghỉ ngơi”.
* Nghệ thuật: kể chuyện, xen kẽ với những chi tiết tả thực
thật cụ thể, chi tiết, sống động với nhịp điệu nhanh, dồn dập, gấp gáp gợi sự
hoảng hốt của kẻ thù. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứng tâm
trạng hả hê, sung sướng của người viết cũng như của dân tộc trước thắng lợi
của Sơn Tây.
2. Số phận thảm hại của
bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân
- Lê Chiêu Thống và
những bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem
vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược, lẽ tất nhiên họ phải
chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh, van xin, không còn đâu tư cách
bậc quân vương, và kết cục cũng phải chịu chung số phận bi thảm của kẻ vọng
quốc.
- Khi có biến, quân Thanh tan rã, Lê Chiêu
Thống vội vã cùng mấy bề tôi thân tín “đưa
thái hậu ra ngoài”, chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua
sông, “luôn mấy ngày không ăn”.
May gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn.
Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy
nước mắt, và sau khi sang đến Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống
người Mãn Thanh và cuối cùng gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người.
Nghệ
thuật: Xen kẽ kể với
tả sinh động, cụ thể gây ấn tượng mạnh. Ngòi bút đậm chút xót thương của
tác giả bề tôi trung thành của nhà Lê.
· So sánh ngòi bút của tác giả khi miêu tả hai
cuộc tháo chạy (một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thống)
có gì khác biệt? Giải thích vì sao có sự khác biệt đó?
- Tất cả đều là tả
thực, với những chi tiết cụ thể, nhưng âm hưởng lại rất khác nhau:
- Đoạn văn trên nhịp
điệu nhanh, mạnh, hối hả “ngựa không
kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”, “tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua
cầu sang sông, xô đẩy nhau…”, ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm
chứa tâm trạng hả hê, sung sướng của người thắng trận trước sự thảm bại của
lũ cướp nước.
- ở đoạn văn dưới, nhịp
điệu có chậm hơn, tác giả dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt
thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua tôi Lê Chiêu Thống, cuộc
theíet đãi thịnh tình “giết gà, làm cơm”
của kẻ bề tôi… âm hưởng có phần ngậm ngùi, chua xót. Là những cựu thần
của nhà Lê, các tác giả không thể không mủi lòng trước sự sụp đổ của một vương
triều mà mình từng phụng thờ, tuy vẫn hiểu đó là kết cục không thể tránh khỏi.