Quê hương anh
nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo
đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi
người xa lạ
Tự phương trời
chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng
đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỷ.
Đồng chí!
Ruộng nương anh
gửi bạn thân cày
Gian nhà không,
mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc
đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết
từng cơn ớn lạnh
Sốt run người
vầng trán ướt mồ hôi.
áo anh rách vai
Quần tôi có vài
mảnh vá
Miệng cười buốt
giá
Chân không giày
Thương nhau tay
nắm lấy bàn tay.
Đêm nay rừng
hoang sương muối
Đứng cạnh bên
nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng
treo.
A.
Kiến thức cơ bản
I.
Tác giả: (1926-2007)
- Tên thật: Trần Đình Đắc. Bút danh : Chính Hữu.
- Là nhà thơ - chiến sĩ
trong suốt thời gian chống Pháp – Mỹ.
- Sáng tác chủ yếu tập
trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm
đồng chí, đồng đội, sự gắn bó của tiền tuyến với hậu phương.
- Phong cách thơ: Bình
dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha, trầm hùng lại vừa sâu lắng, hàm súc.
II.
Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác mùa xuân 1948, thời
kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
-> Bài thơ được đánh
giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946-1954, nó đã làm sang
trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
b. Nội dung chính: Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội
thắm thiết, sâu nặng của những người lính cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên
hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kỳ đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp.
Nghệ thuật: Bài thơ sử
dụng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng và giàu sức
biểu cảm.
c. Giải nghĩa từ:
- Đồng chí: người có
cùng chí hướng, lý tưởng (đồng: cùng; chí: chí hướng). Người cùng trong một
đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ
sau Cách mạng tháng Tám 1945 “đồng chí” thành từ xưng hô quen thuộc trong các
cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội.
- Tri kỷ: biết mình
(tri: biết, kỷ: mình), đôi tri kỷ là đôi bạn thân thiết (hiểu bạn như hiểu
chính mình).
- Sương muối: sương giá
đọng thành những hạt nhỏ trắng xoá như muối trên cây cỏ hay mặt đất. ở miền Bắc
nước ta về mùa đông những ngày có sương muối trời rất rét.
d.
Nhan đề: (đồng là cùng;
chí là chí hướng) Đồng chí là chung chí hướng, chung lý tưởng. Người cùng trong
một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 “đồng chí” là cách xưng hô quen thuộc trong các
cơ quan, đoàn thể cách mạng, đơn vị bộ đội. Vì vậy, tình đồng chí là bản chất
cách mạng của tình đồng đội và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
e.
Mạch cảm xúc và bố cục:
*
Mạch cảm xúc: Bài thơ theo
thể tự do, 20 dòng chia làm 3 đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức
mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm
xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7,
17 và 20).
Sáu dòng đầu có thể xem
là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí. Dòng 7 có cấu trúc đặc biệt (chỉ một
từ với dấu chấm than) như một phát hiện, một lời khẳng định sự kết tinh tình
cảm giữa những người lính.
Mười dòng tiếp theo,
mạch cảm xúc sau khi dồn tụ ở dòng 7 lại tiếp tục khơi mở trong những hình ảnh,
chi tiết biểu hiện cụ thể, thấm thía tình đồng chí và sức mạnh của nó.
Ba dòng thơ cuối được
tác giả tách ra thành một đoạn kết, đọng lại và ngân rung với hình ảnh đặc sắc
“Đầu súng trăng treo” như là một biểu tượng giàu chất thơ về người lính.
*
Bố cục: 3 đoạn
+ Đoạn 1: 7 câu thơ
đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính.
+ Đoạn 2: 10 câu thơ
tiếp theo: những biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của tình cảm ấy ở
những người lính.
+ Đoạn 3: 3 câu kết:
Biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
B.
Phân tích bài thơ
1.
Trước hết, ở đoạn đầu, với 7 câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lý
giải về cơ sở của tình đồng chí.
- Mở đầu bằng hai câu
đối nhau rất chỉnh :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ đầu tiên
giới thiệu quê hương "anh" và “tôi” – những người lính xuất thân là
nông dân. "Nước mặt đồng chua" là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó
làm ăn, "đất cày lên sỏi đá" là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong
hoá, khó canh tác. Hai câu chỉ nói về đất đai - mối quan tâm hàng đầu của người
nông dân, cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự
đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
- Từ “tôi” chỉ 2 người,
2 đối tượng chẳng thể tách rời nhau kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ được
nhấn mạnh hơn.
Tự phương trời tuy
chẳng quen nhau nhưng cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia chiến đấu,
giữa họ đã nảy nở một thứ tình cảm cao đẹp: Tình đồng chí - tình cảm ấy không
phải chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn lý
tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ quốc.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Tình đồng chí còn được nảy nở và trở thành
bền chặt trong sự chan hoà chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn.
Đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng
hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc
đời người lính, nhất là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh, mà sự gắn bó là
thành thật với nhau. Câu thơ đầy ắp kỷ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng đội.
- Cả 7 câu thơ có duy
nhất! Từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung
chí hướng, chung một khát vọng…
- Nhìn lại cả 7 câu thơ
đầu những từ ngữ nói về người lính: đầu tiên là “anh” và “tôi” trên từng
dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai thế
giới riêng biệt. Rồi “anh” với “tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi
người” nhưng là “đôi người xa lạ”, và rồi đã biến thành đôi tri kỷ - một tình
bạn keo sơn, gắn bó. Và cao hơn nữa là đồng chí. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ,
hai người đã dần nhập thành chung, thành một, khó tách rời.
- Hai tiếng “Đồng
chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng chỉ với hai
chữ “Đồng
chí” và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt,
như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát
hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng
đọng trong lòng người về 2 tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một
bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: cùng hoàn cảnh
xuất thân, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở
ra ý tiếp theo: đồng chí còn là những biểu hiện cụ thể và cảm động ở mười câu
thơ sau.
-> như một nốt nhạc
làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của 1 tình cảm Cách mạng mới mẻ chỉ có ở
thời đại mới. Câu thơ thứ 7 là một câu thơ đặc biệt.
2. Mười câu thơ tiếp
theo diễn tả những biểu hiện cụ thể về vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí
đồng đội.
- Đồng chí đó là sự cảm
thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Đó là tình tri kỷ, hiểu
bạn như hiểu mình và còn vì mình là người trong cuộc, người cùng cảnh ngộ. Với người nông dân, ruộng nương, căn
nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt
bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã gác lại tất cả để ra đi đánh giặc. Câu
thơ “Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay”
hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi
biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hy
sinh lớn lao và đó cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình. Các anh
hiểu rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, “Giếng
nước”, “gốc đa” là hình ảnh hoán dụ gợi về quê hương, về người thân nơi hậu
phương của người lính. Như vậy, câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà
thực chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là
người lính đã chia sẻ vớinhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyện
thầm kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỷ niệm, trong nỗi nhớ
và vượt lên trên nỗi nhớ.
- Không chỉ chia sẻ
cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà họ
còn chia sẻ những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính - "sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Họ
đã nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống, cùng chịu bệnh
tật và những cơn sốt rét rừng ghê gớm mà hầu như người lính nào cũng phải trải
qua. Họ cùng thiếu, cùng rách. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta trong
những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
- Những hình ảnh thơ
được đưa ra rất chân thực nhưng cô đọng và gợi cảm biết bao -> diễn ta sâu
sắc sự gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp vượt qua mọi thiếu thốn
gian truân, cục nhọc của đời lính.
“áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Tác giả đã xây dựng những
cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu). Đáng chú ý
là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bjan trước khi nói về mình,
chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể
hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng
người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội đã làm ấm lòng những người lính để họ
vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá.
- Họ quên mình đi để
động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm lấy bàn
tay”. Đây là một cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. Nó
không phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau
truyền cho nhau hơi ấm để vượt lên buốt giá, những bàn tay như biết nói. Và đó
không phải sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng
khổ khiến tình đồng chí thêm sâu dày để đi tới chiều cao: cùng sống chết cho lý
tưởng. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm
đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành
những kỷ niệm không bao giờ quên.
Câu thơ không chỉ nói
lên tình cảm gắn bó sâu nặng của những người lính mà còn thể hiện sức mạnh của
tình cảm ấy.
-> Bài thơ “Đồng
chí” không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ
có thể sống và làm nên bao chiến công hiển hách.
3. Ba câu cuối của bài
thơ là biểu tượng đẹp nhất, giàu chất thơ nhất về tình đồng chí, đồng đội cao
đẹp.
- Bài thơ kết thúc bằng
hình ảnh rất đặc sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
????????? công việc
thực sự của người lính, và tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian
lao, trong công việc đánh giặc thực sự là thử thách lớn nhất. Cũng chính ở cái
nơi mà sự sống, cái chết chỉ kề nhau trong tích tắc ấy thì tình đồng chí mới
thực sự thiêng liêng, cao đẹp. Ba câu thơ cuối như đã dựng lên bức tượng đài
sừng sững về tình đồng chí. Trên cái nền hùng vĩ và khắc nghiệt của thiên
nhiên: Trong cảnh “rừng hoang sương muối” - rừng mùa
đông ở Việt Bắc sương muối phủ đầy trời, nhưng những người lính vẫn đứng
cạnh bên nhau, im lặng, phục kích chờ giặc tới. Từ “chờ” -> tư thế chủ
động. Hình ảnh của họ sát cánh bên nhau vững chãi làm mờ đi cái gian khổ ác
liệt của cuộc chiến, tạo nên tư thế thành đồng vách sắt trước quân thù.
Tình đồng chí khiến họ vẫn bình thản và lãng mạn bên thềm cuộc chiến đấu, thấy
cuộc đời vẫn đẹp đẽ và thơ mộng ngay giữa nguy hiểm, giao lao.
- Hai câu thơ đối nhau
thật chỉnh và gợi cảm giữa khung cảnh và toàn cảnh. Khung cảnh lạnh lẽo, buốt
giá. Toàn cảnh và tình cảm ấm nồng của người lính với đồng đội của anh -> Ca
ngợi sức mạnh của tình đồng đội đã giúp người lính vượt lên tất cả sự khắc
nghiệt của thời tiết. Tình đồng đội đã sưởi ấm lòng các anh giữa rừng hoang mùa
đông và sương muối buốt giá.
- Hình ảnh “đầu
súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, là điểm nhấn của 3
phần, điểm sáng của toàn bài thơ. Hình ảnh thơ rất thực và cũng rất lãng
mạn. Hình ảnh này là có thật trong cảnh giác, được nhận ra từ những đêm
hành quân, phục kích chờ giặc. Trong những đêm phục kích giặc giữa rừng
khuya, người lính còn có thêm một người bạn là trăng. Trăng treo trên nền trời,
nhìn lên trăng như treo trên đầu ngọn súng. Nhịp thơ ở đây là nhịp 2-2 như
gợi lên nhịp lắc của một cái gì chung chiêng lơ lửng trong bát ngát chứ
không phải là cột chặt, vừa thực vừa gợi lên nhiều liên tưởng phong phú:
súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên nhiên
trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự hoà nhịp giữa súng và trăng vừa toát
lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao
cả của cuộc chiến tranh yêu nước: người lính cầm súng là để bảo vệ cuộc sống
hoà bình, độc lập, tự do cho Tổ quốc. Súng và trăng là gần và xa, là chiến sĩ
và thi sĩ, là thực tại và mơ mộng. Tất cả đã hoà quện, bổ sung cho nhau trong
cuộc đời người lính cách mạng. Câu thơ như nhãn tự của cả bài, vừa mang tính
hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng
chí thân thiết.
- Chỉ 3 câu -> là
bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp đẽ
giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ, của tình đồng chí, đồng đội.
4. Đánh giá:
- Ngôn ngữ thơ cô
đọng hình ảnh chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao nhằm diễn tả cụ thể
quá trình phát triển của 1 tình cảm Cách mạng thiêng liêng: Tình đồng chí - một
tình cảm chân thực không phô trương mà lại vô cùng lãng mạn và thi vị.
- Giọng thơ sâu
lắng, xúc động như một lời tâm tình, tha thiết.
- Bài thơ đã đánh dấu 1
bước ngoặt mới cho khuynh hướng sáng tác của thơ ca kháng chiến.
Đặc biệt là cách xây
dựng hình tượng người chiến sĩ Cách mạng, anh bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ đầu
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Câu 5: Cảm nhận về hình ảnh anh bộ đội kháng chiến
chống Pháp
- Bài thơ “Đồng chí”
làm hiện lên hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ buổi đầu kháng chiến bình dị mà cao cả.
- Đó là những người
lính xuất thân từ nông dân: “Quê
hương anh nước mặn đồng chua - Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
- Họ đã sẵn sàng bỏ lại
những gì thân thiết quý giá của cuộc sống nơi đồng quê để ra đi vì nghĩa lớn,
nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với làng quê thân yêu. Họ không chỉ nhớ quê
mà còn cảm nhận được nỗi nhớ nhung của quê hương: “Ruộng nương anh gửi bạn thân
cày - Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay - Giếng nước gốc đa nhớ người ra
lính”.
- Những người lính cách
mạng đã trải qua những gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn “sốt run
người”, trang phục phong phanh giữa mùa đông giá lạnh. Họ vẫn “cười trong buốt
giá, vẫn nhìn thấy cái nên thơ, lãng mạn của thiên nhiên, rừng núi giữa cuộc
chiến đấu gian khổ, ác liệt. Những gian lao, thiếu thốn càng làm sáng lên vẻ
đẹp người lính, sáng lên nụ cười của họ.
- Vẻ đẹp nhất ở họ
là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ tình yêu nước:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đó
là cội nguồn sức mạnh giúp họ vượt lên tất cả và chiến thắng. Kết tinh vẻ đẹp
của người lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong 3 câu cuối
bài.
* Một số câu hỏi xoay quanh bài
thơ:
Câu 1: Viết đoạn văn trình
bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Bài thơ kết thúc bằng hình
ảnh rất đặc sắc: “Đêm nay… trăng treo”. Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí,
đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ.
(Tham khảo phần 3 của bài
phân tích)
Bài thơ kết thúc với những hình ảnh thật đẹp, thật có
ý nghĩa. Nó là biểu tượng thiêng liêng của tình đồng chí cùng chung chiến hào:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
- Đối lập với hiện thực khắc
nghiệt của những đêm dài lạnh giá nơi “rừng hoang sương muối” là những người
lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ
trong gang tấc. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế. Cái tinh thần chủ động đánh
giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau vững chãi thì cái
gian khổ, ác liệt của cuộc chiến bị mờ đi. Tầm vóc của những người lính bỗng
trở nên lớn lao anh hùng. Sức mạnh của tình đồng chí lại càng nổi bật.
- Rõ ràng, tình cảm đồng chí
ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ
trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Bốn chữ
“Đầu súng trăng treo” làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự
chú ý cho người đọc. Trong đêm phục kích giặc, người chiến sĩ bỗng phát hiện
mũi súng như treo một vầng trăng. Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ
độc đáo, nối liền mặt đất với bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị vừa hiện
thực lại vừa lãng mạn.
+ Hiện thực vì đêm khuya
trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần. ở vào một vị trí và tầm nhìn nào
đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ
giặc.
+ Lãng mạn vì trong hoàn
cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái
chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng
trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng. “Súng” là biểu tượng của chiến đấu, “trăng” là
biểu tượng của cái đẹp, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống.
Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là “một cặp đồng chí” tô
đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí
đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ
sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
=> Hiếm thấy một hình
tượng thơ nào vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo”. Đây là
một sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư
vang sâu lắng trong lòng người đọc.
=> Như vậy tình đồng chí
trong bài thơ là tình cảm sâu sắc chân thành của những con người gắn bó keo sơn
trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung.
Câu hỏi tương tự : Sửa lỗi câu văn sau: Với hình ảnh “đầu súng trăng
treo” đã diễn tả đầy sức gợi cảm mối tình tình đồng chí keo sơn trong bài thơ
“đồng chí” được sáng tác năm 1954 sau chiến thắng Việt Bắc.
Triển khia đoạn văn có câu
chủ đề trên.
Câu 2: Phân tích hình ảnh
người lính trong bài thơ “Đồng chí”
- Bài thơ về tình đồng chí
đã cho ta thấy vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người lính cách mạng, cụ thể ở đây
là anh bộ đội hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Hoàn cảnh xuất thân: họ là
những người nông dân nghèo ra đi từ hai miền đất xa nhau: “nước mặn đồng chua”,
“đất cày lên sỏi đá”.
- Họ ra đi vì nghĩa lớn (hai
chữ “mặc kệ” nói được cái dứt khoát, mạnh mẽ… mặc dù vẫn luôn lưu luyến với quê
hương “giếng nước gốc đa…”.
- Họ đã trải qua những gian
lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người, trang phục phong phanh
giữa mùa đông lạnh giá => Những gian khổ càng làm nổi bật vẻ đẹp của anh bộ
đội: sáng lên nụ cười của người lính (miệng cười buốt giá).
+ Đẹp nhất ở họ là tình đồng
chí đồng đội sâu sắc, thắm thiết.
+ Kết tinh hình ảnh người
lính và tình đồng chí của họ là bức tranh đặc sắc trong đoạn cuối của bài thơ.
Câu 3: Theo em, vì sao tác
giả đặt tên cho bài thơ về tình đồng đội của những người lính là “Đồng chí”?
Đó là tên một tình cảm mới,
đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm cách mạng và kháng chiến. Đó là
cách xưng hô phổ biến của những người lính, công nhân, cán bộ từ sau Cách mạng.
Đó là biểu tượng của tình cảm cách mạng, của con người cách mạng trong thời đại
mới.
Câu 4: Phân tích giá trị nghệ
thuật của hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hoá trong câu thơ: “Giếng nước gốc đa
nhớ người ra lính”.
Câu 5: 1. Giả sử em phải làm
bài văn phân tích bài thơ “Đồng chí”, em hãy xét xem phần thân bài của bài làm
có được trình bày theo dàn ý đại cương dưới đây không? Vì sao? Nếu thấy dàn ý
chưa đúng em hãy sửa lại cho hợp lý.
a. Phân tích 7 câu thơ đầu.
b. Bài thơ nói lên tình đồng
chí gắn kết những người chiến sĩ trong một cuộc chiến đấu đầy gian khổ.
c. Bài thơ còn nêu lên một
hình ảnh rất đẹp vào một đêm chờ giặc giữa rừng trong đêm trăng lạnh.
Nhận xét dàn ý: Không chia
theo một căn cứ nhất định: mục a chia theo bố cục: mục b, c chia theo nội dung.
Mục b chưa phân tích rõ và
sâu ý nghĩa cao đẹp của tình đồng chí trong 10 câu thơ.
Mục c lạc ý, mang nặng tả cảnh,
chưa xoay quanh vấn đề về tình đồng chí.
Sửa lại dàn ý:
a. Bảy câu đầu: sự lý giải
về tình đồng chí.
b. Mười câu tiếp theo: là
những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí.
c. Ba câu cuối cùng: biểu
tượng đẹp đẽ giàu chất thơ của tình đồng chí.