Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng
lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn
trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió
vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường
chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và
đột ngột cánh chim
Như sa như ùa
vào buồng lái.
Không có kính, ừ
thì có bụi,
Bụi phun tóc
trắng như người già
Chưa cần rửa,
phì phép châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt
lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ
thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối
như người trời
Chưa cần thay,
lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió
lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe
từ trong bom rơi
Đã về đây họp
thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt
dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa
kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta
dựng giữa trời
Chung bát đũa
nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông
chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi
trời xanh thêm.
Không có kính,
rồi xe không có đèn,
Không có mui xe,
thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì
miền Nam phái trước:
Chỉ cần trong xe
có một trái tim.
A.
Kiến thức cơ bản
I.
Tác giả:
- Phạm Tiến Duật
(1941-2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Sau khi tốt nghiệp
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt
động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu
biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước.
- Thơ Phạm Tiến Duật
tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các
hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Thơ ông có giọng điệu
sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
II.
Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ viết năm
1969, thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra rất ác liệt trên con
đường chiến lược Trường Sơn.
- Bài thơ được tặng
giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.
2. Khái quát giá trị
nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính.
Qua đó, tác giả khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn
trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất
chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
* Nghệ thuật: Tác giả đã
đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường,
ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn.
B.
Phân tích bài thơ
I.
Những nét độc đáo, khác lạ của bài thơ:
1. Nhan đề: dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu
hút người đọc ở cái vẻ lạ độc đáo của nó.
- Làm nổi bật hình ảnh
toàn bài: những chiếc xe không kính.
- Hai chữ bài thơ thêm
vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả muốn nói về
chất thơ của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên
ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ hiểm nguy của thời chiến.
2. Hình ảnh những chiếc
xe không kính gây sự chú ý khác lạ được đưa ra thực đến trần trụi vẫn băng băng
ra chiến trường:
a. Xưa nay, hình ảnh tàu
xe vào thơ thường được mỹ lệ hoá, lãng mạn hoá nhưng Phạm Tiến Duật đưa một
hình ảnh thực đến trần trụi “những
chiếc xe không kính”. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực
bằng 2 câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên:
“Không có kính không phải xe không có
kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Càng gây sự chú ý về vẻ
khác lạ của nó.
b. Câu thơ thứ 2 nhắc
lại hai lần chữ “bom” với những động
từ mạnh “giật”, “rung” khiến cho “kính vỡ
đi rồi” càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu.
c. Bom đạn chiến tranh
còn làm chúng biến dạng thêm, trần trụi hơn.
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước”,
d. Hình ảnh này không
hiếm trong chiến tranh nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và
tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa vào thành
hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
3. Giọng điệu và ngôn
ngữ: Giọng thơ
rất gần với lời nói thường, có những câu như văn xuôi tưởng như khó chấp
nhận trong một bài thơ “Không có kính
không phải vì xe không có kính” “Không có kính, ừ thì cói bụi”, “Chung bát đũa
nghĩa là gia đình đấy”… Nhưng đây lại chính là nét độc đáo tạo nên
một giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, sôi nổi, tinh ngịch, tự nhiên, thể
hiện cái hiên ngang, bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm của các anh lính lái
xe Trường Sơn.
II.
Hình ảnh người lính lái xe
- Hình ảnh người lính
lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ được khắc
hoạ đậm nét trong bài thơ. Hình ảnh của họ được miêu tả gắn liền với những
chiếc xe, đồng thời cũng nổi bật lên trong toàn bài.
- Hình ảnh những chiếc
xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu
đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ
những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tình thế lớn lao của họ đặc biệt là lòng
dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.
- Đồng thời với hình
ảnh của những chiếc xe không kính độc đáo là hình tượng đẹp đẽ của những người
lái xe xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
- Họ là chủ nhân của
những chiếc xe không kính nên khi miêu tả về họ, nhà thơ đã khắc hoạ họ với
những ấn tượng, cảm giác cụ thể, sinh động khi ngồi trên những chiếc xe
không kính trong tư thế “nhìn trời,
nhìn đất, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã không còn kính chắn gió. Người
lái xe như tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”.
- Những câu thơ tả
thực tới từng chi tiết, diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc
xe đang lao nhanh trên đường. Không có kính chắn gió, các anh đối mặt với bao khó
khăn, nguy hiểm, nào “gió vào xoa mắt
đắng” rồi “sao trên trời”, “chim dưới đất”, đột ngột, bất ngờ như sa, như
ùa – rơi rụng, va đạp, quăng ném… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Những
hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, là cái thi vị
nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Hiện thực thì khốc liệt, nhưng
người chiến sĩ cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn nhạy cảm
với cái đẹp – một nghị lực, một bản lĩnh phi thường. Đặc biệt hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là một
khái quát đặc sắc của con đường trái tim. Đường Trường Sơn, con đường giải
phóng miền Nam, chính là con đường của trái tim. Những câu thơ trên hé
lộ diện mạo tinh thần thầm kín của người chiến sĩ.
- Cảm giác, ấn tượng,
căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ hoảng hốt. Trái lại
họ hiện ra trong tư thế ung dung, hiên ngang, tự tin, tự hào:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng”,
Kết cấu thơ 6 chữ với
nhịp 2/2/2 đều đặn, điệp từ “nhìn”, chữ “ung dung” đảo lên đầu làm nổi bật tư
thế ấy. “Nhìn thẳng” là cái nhìn có vẻ trang nghiêm, bất khuất không
thẹn với đất với trời, nhìn thẳng vào mọi gian khổ hy sinh mà không hề run sợ,
né tránh. Dường như ở phía trước, cả không gian, đất trời thu vào tầm mắt của
họ, và cái đích họ muốn đưa chiếc xe tới chính là nơi chiến trường khói lửa. Tư
thế của họ mới thật đàng hoàng làm sao.
- Cùng với tư thế nổi
bật ấy là tầm quan sát cao rộng với điệp ngữ “nhìn” biểu hiện sự tập
trung cao độ, một tinh thần trách nhiệm nhưng của một tâm hồn lãng mạn,
bình thản, chủ động chiêm ngưỡng và tận hưởng từng vẻ đẹp của thiên nhiên
qua ô cửa kính vỡ.
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Thiên nhiên còn là sự
khốc liệt của bụi, gió, mưa nhưng với một thái độ ngang tàng thách thức, bất
chấp mọi gian khổ, khó khăn với tinh thần quả cảm, người chiến sĩ lái xe
buông những tiếng chắc gọn “Không có… ừ thì” như một lời nói thường, nôm na mà
cứng cỏi biến những khó khăn thành điều thú vị, với ý nghĩa táo tợn “Chưa cần…
cây số nữa”.
Giọng nang tàng, bất
chấp thể hiện rõ trong cấu trúc từ lặp: “Không có
kính ừ thì… chưa cần” và trong các chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười
ha ha” hay “lái trăm cây số nữa”
giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc, gió bụi, mưa có thể gây bao khó
khăn. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực: “mưa tuôn, mưa xối như
ngoài trời”, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hoá cái không bình thường đó
và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp
nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến
tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.
- Lời thơ nhẹ nhõm,
trôi chảy như những chiếc xe vun vút bươn trải trên đường. Có chỗ nhịp
nhàng, trong sáng như vẳng tiếng hát – vút cao.
b. Tâm hòn sôi nổi của
tuổi trẻ, tình đồng chí, đồng đội sâu sắc.
- Những chiến sĩ lái xe
là những chàng trai trẻ vui tính, hóm hỉnh với những hình ảnh tinh
nghịch “Chưa cần rửa, phì phèo châm điều thuốc
– Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18, đôi mười
gợi cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản xua tan những khó khăn, nguy hiểm.
- Hồn nhiên, tếu táo
nhưng cũng thật cảm động trong không khí đoàn kết, trong tình đồng chí, đồng
đội.
- Sự khốc liệt của
chiến tranh đã tạo nên những “tiểu đội xe
không kính”. Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa,
họ càng đi càng có thêm nhiều bạn: “Gặp
bạn bè suốt dọc đường đi tới”. Họ có thể “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mà không cần mở cửa xe, thoải mái, tự
hào và thắm tình đồng đội. Chỉ một cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ động viên nhau,
cảm thông với nhau. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Tình cảm
ấy thắm thiết như ruột thịt, như anh em trong gia đình. “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
– một cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật tếu hóm và tình cảm thật sâu
nặng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung:
chung bát, chung đĩa, nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô
vàn thách thức nguy hiểm phía trước.
- Khi hành quân các anh
động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo, những sinh hoạt, nghỉ ngơi
thật ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khổ nhưng tâm hồn người
lính thật vui tươi, lạc quan, có cái gì xao xuyến: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy”. “Chông chênh” gì thì chông chênh nhưng ý chí chiến đấu, khí phách,
nghị lực vẫn vững vàng, kiên định, vượt lên tất cả. Chính mình đồng đội đã tiếp
cho họ sức mạnh để tâm hồn họ phơi phới lạc quan. Phải chăng chính tình cảm ấy
đã nâng lên câu hát nâng bước chân người lính tiếp tục vượt qua những lần “bom giật bom rung” để rồi “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Điệp ngữ
“lại đi” khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới. Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi
lên tâm hồn chan chứa lạc quan, đầy hy vọng, yêu đời của người lính.
c. ý chí chiến đấu vì
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Bài thơ khép lại bằng
bốn câu thể hiện “ý chí… Tổ quốc”. Đó chính là động lực mạnh mẽ và sâu xa
tạo nên sức mạnh phí thường của người lính để vượt lên tất cả, bất chấp mọi
nguy nan, mọi sự huỷ diệt, tàn phá.
- Khổ thơ cuối tạo nên kết
cấu đối lập, bất ngờ, sâu sắc, đối lập giữa 2 phương diện vật chất và
tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trải qua mưa bom
bão đạn, những chiếc xe ban đầu đã không có kính, bị bom Mỹ làm cho biến dạng
đến trần bụi:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
- Với biện pháp liệt
kê, điệp ngữ “không có” được nhắc
lại 3 lần nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe, còn cho ta
thấy mức độ ác liệt của chiến trường.
- Nhưng điều kỳ lạ là
không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kỳ diệu của những chiếc xe trơ
trụi ấy vẫn băng ra chiến trường. Tác giả lý giải bất ngờ và lý chí: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Mọi
thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim người lính
- trái tim vì miền Nam - thì xe vẫn chạy, “tất
cả cho tiền tuyến”. Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên mọi
gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước.
- Bom đạn quân thù có
thể làm biến dạng cái xe nhưng không đè bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của
những chiến sĩ lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà còn có
một động cơ tinh thần “Vì miền Nam phía
trước”.
- Đối lập với tất cả
những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim – sức mạnh
của người lính. Sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù.
- Trái tim ấy thay thế
cho tất cả những thiếu thốn “không kính,
không đèn, không mui”, hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể
sống không gì tàn phá, ngăn trở được. Xe chạy bằng tim, bằng xương máu của
người chiến sĩ, trái tim ấy tạo ra niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến
thắng. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì đó là những chiếc xe trái tim cầm
lái.
- Trái tim yêu thương, trái tim cam trường của người chiến sĩ lái xe vừa
là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ gợi ra biết bao ý nghĩa: trái
tim là hình ảnh hội tụ vẻ đẹp mà thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu,
trái tim chứa đựng bản lĩnh hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang
tinh thần lạc quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Trái
tim trở thành nhãn tự bài thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính
và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
- Trái tim người lính
toả sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không quên một thế hệ
thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.
III.
Thành công về nghệ thuật:
Ngôn ngữ và giọng điệu
bài thơ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Phạm Tiến Duật, góp phần khắc
hoạ hình ảnh người chiến sĩ lái xe.
Ngôn
ngữ bài thơ giản dị,
ngồn ngộn chất sống, đời sống chiến trường, vừa làm giàu thêm chất điệu thơ
ca vừa thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. Lời thơ gần với lời
văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường nhưng vẫn giàu chất thơ.
Chất thơ toát lên từ những hình ảnh độc đáo; từ vẻ hiên ngang, sôi
nổi, trẻ trung của người lính, từ những ấn tượng cảm giác cụ thể của họ khi
ngồi trên những chiếc xe không kính.
Ngôn ngữ đó góp phần
tạo nên giọng điệu ngang tàng có cả chất tinh nghịch phù hợp với đối tượng miêu
tả - những chàng trai lái xe trên những chiếc xe không kính.
Thể thơ kết hợp linh
hoạt giữa thể 7 chữ với thể 8 chữ, có chỗ 6 hay 10 chữ tạo cho bài thơ một điệu
thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động, góp phần tạo nên chất thơ mới, giọng
điệu mới của thơ ca chống Mỹ. Nó bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của
thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm.
IV.
Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ qua hình ảnh người lính trong
bài thơ. So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này với bài Đồng chí:
- Thế hệ trẻ thời kháng
chiến chống Mỹ là thế hệ sống rất đẹp, rất anh hùng. Họ ý thức sâu sắc
về sứ mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ, hy sinh vẫn phơi phới lạc quan.
Như lời nhà thơ Tố Hữu, họ là thế hệ “Xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai” hay “Đi chiến trường như trảy hội mùa xuân”
hay “Mưa bom bão đạn lòng thanh thản”.
Chính vì vậy, mãi mãi các thế hệ người Việt vẫn tự hào, khâm phục và biết ơn
họ.
- Những người lính
trong “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cho thấy hình ảnh người
lính trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ có những nét chung: lòng yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì
độc lập tự do của Tổ quốc: thái độ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy,
sống lạc quan, có tình đồng chí đồng đội thắm thiết.
Tuy nhiên, ở mỗi bài
thơ, hình ảnh người lính lại có những
nét riêng:
- “Đồng chí” thể hiện
hình ảnh người lính hầu hết xuất thân từ nông dân, từ thân phận nô lệ
nghèo khổ mà đi vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Cách
mạng chính là sự giải thoát cho số phận đau khổ tối tăm của họ. Hiếm có
sự ung dung tự tại nhưng lại rất đoàn kết gắn bó yêu thương nhau.
- Trong “Bài thơ về
tiểu đội xe không kính”, người lính đi vào cuộc chiến đấu với ý thức giác
ngộ về lý tưởng độ lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội. Họ ý thức sâu sắc về
trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống trẻ trung, yêu đời, lạc quan, tự tin.
Hình ảnh của họ được thể hiện trong một thời điểm quyết liệt và khẩn trương
hơn. Đó là một thế hệ anh hùng, hiên ngang, mạnh mẽ.
Một số câu hỏi xoay quanh tác
phẩm.
Câu 1 : Nhan đề bài thơ có ý nghĩa như thế
nào ?
Tên bài thơ: đặt cụ thể, trực tiếp như văn xuôi. Cái
độc đáo đã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ, một cái nhan đề có vẻ như dài và
thừa. Có lẽ chỉ cần viết “Tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “bài thơ” nói lên
cách khai thác hiện thực: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính, chỉ
viết về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là khai thác chất thơ
vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam vượt lên những khắc
nghiệt của chiến tranh.
Câu 2: Những hình ảnh chiếc xe không kính trong bài
thơ có gì độc đáo và mới lạ?
Trong bài thơ nổi bật lên một hình ảnh độc đáo:
những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường.
- Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa
vào thơ thì thường được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” đi rồi và thường mang ý
nghĩa tượng trưng hơn là tả thực (vd: chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con
tàu trong “tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài
thơ cùng tên của Huy Cận).
- ở bài thơ này, hình ảnh những chiếc xe không kính
được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực. Đó là hình ảnh hoàn toàn có thực trong
chiến tranh, thực đến trần trụi đã được tác giả nắm bắt đưa vào thơ và khai
thác ở đó cả chất thơ và nhiều ý nghĩa. Hơn nữa, viết về những người lái xe thì
không gì gắn họ với hình ảnh chiếc xe, qua xe mà làm nổi bật hình ảnh người lái
xe. Bởi vậy, có thể nói khi tìm được hình ảnh chiếc xe không kính tác giả đã
tìm được cấu tứ đặc sắc cho bài thơ của mình tạo thành một hình tượng thơ độc
đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
Câu 3: “Không có kính rồi xe không có đèn”
a. Chép tiếp câu thơ trên để
hoàn chỉnh đoạn thơ gồm 4 dòng.
b. Cho biết, đoạn thơ vừa
chép trong bài thơ nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
c. Từ “trái tim” trong câu
thơ cuối cùng của đoạn vừa chép được dùng với nghĩa như thế nào?
d. Viết một đoạn văn diễn
dịch từ 6 đến 8 phân tích hình ảnh người lính lái xe trong đoạn thơ.
Gợi ý:
a. Chép tiếp: Không có kính
rồi xe không có đèn.
Không có mui xe thủng xe có
xước
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía
trước
Chỉ cần trong xe có một trái
tim.
b.
c. Từ “Trái tim” trong câu
thơ cuối cùng có thể hiểu theo nghĩa chuyển:
- Chỉ người lính lái xe.
- Chỉ sự nhiệt tình cứu
nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
d. Đoạn văn phải đảm bảo các
yêu cầu về nội dung và hình thức (tham khảo câu 3, 4).
- Cuộc chiến đấu ngày càng
gian khổ, ác liệt (qua hình ảnh những chiếc xe ngày càng méo mó, biến dạng).
- Bất chấp gian khổ, hy
sinh, những chiếc xe vẫn thẳng đường ra tiền tuyến.
- Những người lính lái xe
quả cảm vững tay lái vì họ có một trái tim tràn đầy nhiệt tình cách mạng, tình
yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá.
Tham khảo đoạn văn phân
tích.
Hai câu cuối của “bài thơ về
tiểu đội xe không kính” đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe
trên đường Trường Sơn.
Xe4 vẫn chạy vì Miền Nam
phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái
tim
Những chiếc xe ấy đã bị bom
đạn chiến tranh phá huỷ nặng nề, mất đi cả những hệ số an toàn tưởng như không
thể lăn bánh. Vậy mà những người chiến sĩ lái xe đâu có chịu dừng. Những chiếc
xe vận tải của họ chở lương thực, thuốc men, đạn dược vẫn chạy trong bom rơi
đạn lửa bởi phía trước là miền Nam đang vẫy gọi. Công cuộc giành độc lập tự do
của nửa nước vẫn phải tiếp tục. Dùng hình ảnh tương phản đối lập, câu thơ không
chỉ nêu bật được sự ngoan cường, dũng cảm vượt lên trên giản khổ, ác liệt mà
còn nêu bật được ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Hơn
thế hình ảnh hoán dụ “một trái tim” là hình ảnh đẹp nhất của bài thơ chỉ người
lính lái xe, chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hình ảnh này kết hợp cùng kết câu câu “vẫn
– chỉ cần” đã lý giải về sức mạnh vượt khó, khẳng định hơn tinh thần hiên ngang
bất khuất, sự lạc quan tự tin trong cuộc chiến của người lính lái xe. Chính
điều đó đã tạo nên cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng để chúng ta mãi
mãi yêu quý và cảm phục.
Câu 6: Cảm nhận của em về
hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
của Phạm Tiến Duật.
Người lái xe trong bài thơ
là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn
gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thường: ừ thì có bụi, ừ
thì ướt áo. Thái độ “chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc, chưa cần thay, lái
trăm cây số nữa là sự thách thức, coi thường khó khăn gian khổ. Những chiếc xe
từ trong bom rơi, bị bom giật, bom rung, nhưng người chiến sĩ vẫn ung dung. Các
anh nhìn thẳng phía trước, vui vẻ bắt tay nhau. Xe hư hỏng không có kính, không
có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước, nhưng xe vẫn chạy vì Miền Nam phía
trước. Tất cả vì tiền tuyến, vì mặt trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những
chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn bánh ra mặt trận. Có thể nói những người
lái xe, người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên
mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Câu 7:
a. Phân tích giá trị biểu
cảm của từ “Chông chênh” trong câu thơ: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy.
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
b. Chỉ với hai câu thơ trên,
Phạm Tiến Duật đã cho ta hiểu vẻ đẹp người lái xe Trường Sơn thời chống Mỹ. Hãy
viết tiếp từ 7 đến 12 câu tạo đoạn văn diễn dịch hoàn chỉnh (trong đso có sử
dụng phép nối và câu đơn mở rộng thành phần chủ ngữ).
Gợi ý:
a. - “Chông chênh” là một từ
láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi tả tư thế không thăng
bằng, không chắc chắn, không vững cãi. Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ thì
từ “chông chênh” gợi sự nguy hiểm. Đây là một nét vẽ hiện thực mà Phạm Tiến
Duật tái hiện lại cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Trong
hoàn cảnh chiến đấu hết sức gian khổ, họ phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn
trên xe hoặc trên dọc đường đi giữa làn mưa bom của kẻ thù nhằm huỷ diệt sự
sống.
- Song từ “chông chênh” còn
gợi tả phong thái hiên ngang của người lính. Bom đạn của kẻ thù tưởng như có
thể dùng sức mạnh để huỷ diệt sự sống con người nhưng không! Hình ảnh những
chiếc võng mắc “chông chênh” trên tuyến đường TS khói lửa ấy đã chứng minh điều
ngược lại: sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh,
hiên ngang, tư thế của người chiến thắng.
b. Viết đoạn văn:
- Câu thơ tái hiện một cách
tinh tế gian khổ mà những người lính lái xe Trường Sơn phải trải qua. Đó là
cuộc sống gian khổ, phải ăn, phải ngủ những giấc ngủ ngắn ngày trên xe giữa
những làn mưa bom của giặc đang ngày đêm trút xuống nhằm huỷ diệt sự sống.
- “Chông chênh” là một từ
láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm. Từ “chông chênh” gợi ta tư thế không thăng
bằng, không chắc chắn, không vững chãi. Song trong hoàn cảnh của bài thơ, từ
“chông chênh” còn gợi tả phong thái hiên ngang của người lính như ngạo nghễ,
thách thức kẻ thù.
- Họ luôn có tư thế tiến về
phía trước. Điệp từ “lại đi” tái hiện vòng bánh xe lăn tiến lên phía trước,
rộng hơn là đoàn xe vận tải lao nhanh ra mặt trận bỏ lại đằng sau tất cả đạn
bom u ám để đến với bầu trời xanh phía trước.
- Bầu trời xanh là hình ảnh
trượng trưng cho hoà bình, cho cuộc sống tươi đẹp. Với hình ảnh này, ta thấy
được niềm lạc quan, niềm tin bất diệt của người lính vào chiến thắng. Phải chăng
đó là sức mạnh lớn lao để đoàn xe lăn bánh tới đích?