Kể lại nội dung bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ bằng văn xuôi biểu cảm
Hướng dẫn
Kể lại nội dung bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ bằng văn xuôi biểu cảm
Đỗ Phủ là một nhà thơ hiện thực của Trung Quốc giai đoạn đời Đường, một giai đoạn mà thơ ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và thu được những thành tựu vô cùng to lớn. Đỉnh cao về thơ ca thời đó có thể kể đến hai nhà thơ Lí Đạch và Đỗ Phủ, Đỗ Phủ được mệnh danh là thi thánh còn Lí Bạch là thi tiên. Thơ Lí Bạch thường bay bổng lãng mạn, ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên đất nước, còn thơ Đỗ Phủ thường nói về hiện thực đầy đau khổ, bất hạnh mà qua đó ta thấy được phần nào cuộc sống của chính nhà thơ. Một trong những bài thơ tái hiện lại quãng đời bất hạnh của ông là bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá. Bài thơ như một câu chuyện kể lại chân thực về cuộc sống vất vả, tủi nhục khi căn nhà tranh của ông bị gió thu thổi tốc mái.
Vào một đêm tháng 8, bão lốc ập đến, trời bỗng đổ mưa, kèm với nó là những âm thanh ghê rợn như tiếng thét gào của sấm và chớp, tiếng rít của gió. Mái nhà tranh nằm nép mình ven rừng dường như không còn chịu đựng được sức mạnh của trận cuồng phong, chỉ trong chốc lát mái tranh tung lên trời để lại căn nhà trống huếch, chống hoác. Mái tranh bay lả tả khấp nơi, mảnh thì bay sang sông, rải khắp bờ, mảnh thì bay cao treo tót lên ngọn cây trong rừng xa. Mảnh thì bay ra ngoài mương. Để có được căn nhà đó, ông phải nhờ đến sự giúp đỡ cùa bạn bè, ngờ đâu ông được sống yên ổn khi tuổi đã già sức đà yếu, vậy mà chỉ sau vài tháng, trận bão lốc đã cướp đi sự bình yên hiếm hoi ấy. Hoàn cảnh của nhà thơ thật đáng thương. Trong tình cảnh đó ông rất cần sự động viên an ủi của bạn bè, láng giềng. Ấy vậy mà lũ trẻ trong thôn thấy Đỗ Phủ sức yếu đã tranh nhau chạy đến cướp những mảnh còn lại rồi bỏ chạy thật nhanh và khuất sau lũy tre. Sức kiệt, mệt mỏi, chán nản ông chỉ biết đứng kêu gào nhìn theo lũ trẻ. Đọc những câu thơ này, ta có thể mường tượng ra hình ảnh một ông già quần áo xộc xệch, tay chống gậy, bất lực nhìn cảnh lũ trẻ cướp giật và bỏ chạy. Hình ảnh đó gợi cho ta thấy được sự ngang trái, hỗn loạn trong xã hội thời bấy giờ. Đồng thời ta cũng thấy tấm lòng cảm thông của tác giả đối với những kẻ vừa làm điều xấu bởi ông hiểu chúng cũng nghèo khổ, chúng cũng chỉ là nạn nhân của xã hội bất công thối nát khi đó.
Nếu 8 câu thơ đầu nhà thơ nói đến cái rủi, cái đau về sự bạc bẽo vô tâm của bọn trẻ trước nỗi khổ, bất hạnh của ông thì ở khổ thơ thứ ba nhà thơ đưa ta trở về Với căn nhà sau trận cuồng phong của ông. Trời đã yên lặng sau những giờ phút điên cuồng, bầu trời tối đen như mực và mưa lại rền rĩ suốt canh khuya:
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa chẳng dứt.
Một khung cảnh ảm đạm bày ra trước mắt nhà thơ. Khắp nơi đều đã ướt hết tất cả, chiếc giường của các con ông vẫn nằm bây giờ cũng ướt sũng những nước, đầu giường cũng đã ướt mền chẳng còn chỗ để nằm. Cả nhà phải đắp chiếc chăn cũ lạnh cóng như sắt. Nhà thơ ngồi trong căn nhà rách nát trong lòng đau đớn xót xa, thương vợ con nheo nhóc, thương thân mình đến tận cuối đời vẫn vất vả đói nghèo.
Thế nhưng đến khổ thơ cuối cùng thì tính nhân đạo của ông thực sự đã hiện lên rất rõ. Trong ngôi nhà dột nát, đói nghèo ấy lẽ ra ông có quyền được mơ ước đến một cuộc sống no đủ hạnh phúc cho riêng mình, thế nhưng trong hoàn cảnh đó ông lại mơ đến một ngôi nhà rộng “muôn ngàn gian” không phải cho riêng ông mà là để “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Chúng ta thật bất ngờ trước ước mơ của ông. Đó là một ước mơ vì nhân loại. Ông không chỉ nói về cái khổ của cá nhân ông, mà thông qua đó, ông nói lên cái khổ của tất cả kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ.
Than ôi Ị Bao giờ nhà ấy sừng sững đứng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được
Ta thấy ở đây một tiếng thở dài, một sự xót xa đau đớn. Điều đó có nghĩa là không chỉ riêng lều ông nát mà khắp kẻ sĩ trong thiên hạ đều phải sống trong những túp lều nát, một tình cảnh chung của xã hội. Bao giờ mọi người nghèo trong thiên hạ mới được sống trong một ngôi nhà ấm cúng muôn ngàn gian? Ở đây ta còn thấy một tấm lòng lo cho dân đến tột cùng, ông sẵn sàng chấp nhận hi sinh mất mát để cho người khác được hạnh phúc, yêu thương người khác song mới lo đến bản thân mình.
Bài thơ đã thể hiện rất rõ bản chất nhân đạo của nhà thơ Đỗ Phủ. Ông luôn nghĩ đến hạnh phúc của mọi người. Thông qua bài thơ, ta còn cảm nhộn được lý tưởng cao cả của ông, đó là khao khát thay đổi chế độ, cải thiện xã hội, xóa bỏ hiện thực đen tối này. Những suy nghĩ của nhà thơ khiến chúng ta xúc động và bất ngờ.