Tìm Kiếm

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Bài làm

  • “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
  • Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
  • (Chế Lan Viên)

Trong cuộc đời mỗi người đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành những kỉ niệm những dấu ấn khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Thiên nhiên miền Tây Bắc đã để lại trong nhà thơ những cảm xúc riêng để rồi bức tranh ấy đã được tạc lại đầy hào hùng và thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”.

“Tây Tiến” được nhà thơ sáng tác cuối năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi Quang Dũng rời Tây Tiến đi làm nhiệm vụ khác. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài của những kỉ niệm “ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” . Trong nỗi nhớ “ chơi vơi” ấy người đọc được khám phá và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên Tây Bắc.

Nếu ai đến với Tây Bắc sẽ không thể nào quên vẻ hùng vĩ và dữ dội của núi rừng nơi đây. Vẻ đẹp ấy đã được nhà thơ Quang Dũng dựng lại trong những hình ảnh thơ đầy độc đáo . Trước hết là thế hun hút của thế đèo cao dốc ngược:

  • “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
  • Heo hút cồn mây súng ngửi trời
  • Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Với cách sử dụng điệp từ “dốc” cùng nhịp 4/3 và các láy từ “ khúc khuỷu, thăm thẳm” , Quang Dũng như đang đưa từng nét vẽ rắn rỏi và chắc khỏe và hình ảnh của những con dốc tiếp nối nhau đầy gập ghềnh hiểm trở và ẩn chứa nhiều bất trắc. Cùng với dốc là những “ Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Câu thơ được tạo thành từ hai vế tiểu đối , hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng được đặc tả: một bên thì lên cao chót vót, một bên xuống sâu thăm thẳm. Không gian thơ được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi,chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng. Ba dòng thơ giàu tính tạo hình nhiều thanh trắc đã gợi mở bao hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên nơi đây. Hiểm nguy của núi rừng còn được đẩy cao qua hình ảnh:

  • “Chiều chiều oai linh thác gầm thét
  • Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
 

Núi rừng tây Bắc hiện lên với bao âm u, hoang dã với thời gian buổi chiều , về đêm càng nhấn mạnh vẻ hoang sơ của chốn “ sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa , từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về về một vùng núi hoang vu dữ dội. Cảm tưởng như người đọc có thể nghe được từng bước chân, từng tiếng gầm gừ của chúa sơn lâm, mối đe dọa với những người chiến sĩ. Không chỉ vậy cái dữ dội, hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc còn được cụ thể qua hình ảnh của con sông Mã:

  • “ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nội lực của câu thơ dồn vào động từ “gầm”. chỉ một chữ ấy thôi cũng đủ thấy cái bi tráng hùng vĩ của con sông đang gầm gào dữ dội, ẩn chứa một sức mạnh to lớn.

Thiên nhiên Tây Bắc đã lầm nền cảnh làm nổi bật vẻ hào hùng bi tráng của những người lính trên đường hành quân phải trải qua biết bao hiểm nguy thử thách đến từ thiên nhiên.

Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ , dữ dội mà còn thơ mộng trữ tình với những đường nét mềm mại:

  • “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Không phải hoa nở mà là “hoa về”, không phải đêm khuya mà là “đêm hơi”. Bằng cách sử dụng những thanh bằng , câu thơ không tả mà chỉ thiên về gợi qua những đường nét ấn tượng đã ghi lại những nét riêng của cảnh trí nơi này vừa mộng mơ ảo huyền vừa thực vừa hư , như sương như khói. Bao phủ lên thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có cái huyền ảo của đêm mà còn có cái êm dịu tươi mát của mưa rừng Tây Bắc:

  • “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
 

Đối lập với những câu thơ miêu tả sự hùng vĩ dữ dội , ở đây vẻ đẹp của thiên nhiên đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn. Câu thơ được dệt bằng đa phần thanh bằng gợi mở những hình ảnh nếp nhà ẩn hiện trong màn mưa nơi thung lũng Pha Luông. Không gian được đẩy xa,cái nhìn trở nên mờ ảo sương khói. Có mưa nhưng không lạnh lẽo, hoang vắng mà toát lên cái bình yên, thơ mộng. Làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc còn phải kể đến một chiều sương trên sông nước Châu Mộc:

  • “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
  • Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
  • Có nhớ dáng người trên độc mộc
  • Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Núi cao không còn trước mắt mà chỉ là một chiều sương với hồn lau, bến lách, dáng người trên con thuyền độc mộc, dáng hoa đong đưa. Ba chữ “chiều sương ấy”với đại từ phiếm chỉ , không xác định , gói trọn cả không gian thời gian. Âm điệu câu thơ như trùng xuống chậm lại được kéo dãn ra . Cảnh thơ trở nên hữu tình với những ý thơ “ hồn lau, hoa đong đưa”. “Hoa” ở đây có thể là hình ảnh thực của xứ Tây Bắc ngàn hoa cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ cho người con gái đang soi mình dưới dòng nước lũ. Hồn lau và hồn hoa hài hòa với tâm hồn người lính làm nên hồn thơ rất riêng. Một chất thơ chất nhạc bàng bạc trong hình ảnh thơ. Những câu thơ trở nên thật đẹp vì nó được vẽ nên bởi tâm hồn nhạy cảm tinh tế của những chàng trai Hà Nội trước mảnh đất xứ lạ. Qua đó vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của người lính Tây Tiến được gián tiếp thể hiện một cách đầy thi vị.

 

Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như một tác phẩm hội hoạ tuyệt vời. Những nét vẽ táo bạo khoẻ khoắn, ngôn ngữ gân guốc ở đoạn đầu khi phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội kết hợp với những nét vẽ thật nhẹ nhàng, ngôn ngữ mềm mại, nhịp thơ êm ả thơ mộng khi tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, thiên nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những người anh hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đó chính là cái tài hoa của ngòi bút Quang Dũng.