I. Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Lí Bạch (701 - 762), nhà thơ nổi tếng của
Trung Quốc đời Đường, quê ở Cam Túc nhưng ngay từ khi mới năm tuổi ông đã theo
gia đình về sống ở Tứ Xuyên. Vì thế, nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương
của mình. Lí Bạch từ nhỏ đã thích ngao du, mong lập nên công danh sự nghiệp,
song đường quan nghiệp của ông có nhiều trắc trở.
Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”. Thơ ông
thể hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng. Hình ảnh tong thơ của ông tươi sáng, kì
vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Thơ ông hay nhất ở những bài vết về chiến
tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.
2. Tác phẩm
Vọng Lư sơn bộc bố được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Đây là
một trong những bài thơ hay tiêu biểu cho đề tài chiến tranh của Lí Bạch.
II. Kiến thức cơ bản
1. Như nhan đề của bài thơ (Xa ngắm thác núi
lư) và căn cứ vào nghĩa của hai từ: vọng (trông từ xa), dao khan (nhìn từ
xa), có thể thấy cảnh núi Lư được nhà thơ quan sát và miêu tả từ xa. Vị trí đứng
này tuy không thể giúp nhà thơ miêu tả được những chi tiết của thiên nhiên, cảnh
vật nhưng lại có thể quan sát được vẻ đẹp của toàn cảnh, miêu tả được cái hùng
vĩ tự nhiên của thác nước.
2. Ngay ở câu
thơ đầu tiên (Nắng rọi Hương Lô khói tía
bay), tác giả đã hoạ nên hình ảnh núi Hương Lô thật mĩ lệ. Trong ánh nắng mặt
trời chiếu rọi, mây khói chuyển thành màu tía, khói hương huyền ảo, khác thường
(có người dịch là mây tím). Câu thứ nhất, với hình ảnh núi Lư, như đã làm nên một
cái nền cho bức tranh phong cảnh. Trên cái nền ấy, ở câu thơ tiếp theo, hình ảnh
thác nước mới thật nổi bật, sống động: Xa
trông dòng thác trước sông này. Xa trông chứ không phải nhìn ngắm ở khoảng
cách gần. Phải là từ xa thì, trong cái nhìn, mới thu nhỏ được hình ảnh thác nước
để hình dung nó trong toàn cảnh.
3. Bản dịch thơ dịch không sát câu thứ hai. Nguyên tác là:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên (nghĩa là: Nhìn xa thấy dòng
thác như treo trên dòng sông phía trước). Chữ quải thật thần tình, bản dịch thơ làm mất chữ này. Thác nước cao trông
xa như treo trước dòng sông, tựa như một dải lụa khổng lồ (bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn xa như một tấm vải treo
dọc buông rủ xuống). Trước mắt ta hiện ra một cảnh tượng thiên nhiên kì vĩ, phi
thường. Hình ảnh dòng thác trên nền cảnh (đã được tạo ra ở câu 1) như một bức ảnh
mà ở đó nhà nghệ sĩ đã làm cảnh vật tĩnh lại trong chớp nhoáng, lấy tĩnh mà tả động.
Đến câu thơ thứ ba, hình ảnh dòng thác thoắt chuyển sang
trạng thái động: Nước bay thẳng xuống ba
nghìn thước. Từ phi (bay) trong câu
này khiến khung cảnh hùng vĩ, ấn tượng mạnh mà không thiếu sự bay bổng. Để ở câu
thơ cuối hồn thơ chợt cất cánh một ẩn dụ lãng mạn: Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Lối nói khoa trương lại diễn tả được
một cách chân thực trạng thái cảm nhận về cái kì vĩ, phi thường. Chẳng có hình ảnh
nào diễn đạt hơn được nữa cái sức mạnh nên thơ, như thực mà quá đỗi lạ thường của
thác nước trong cái nhìn của thi sĩ như dải Ngân Hà rơi xuống từ chín tầng mây
này.
4. Lí Bạch từng được mệnh danh là Thi tiên (tiên thơ). Thơ ông thể hiện một tâm hồn luôn vươn tới tự
do, phóng khoáng. Hình ảnh trong thơ ông thường tươi sáng, bay bổng diệu kì bộc
lộ một tình yêu quê hương đất nước thiết tha. Qua bài thơ Xa ngắm thác núi Lư ta phần
nào thấy được điều đó.
5.* Về câu thơ thứ hai, em thích cách hiểu nào hơn? (cách
hiểu trong bản dịch hay cách hiểu trong chú thích).
Gợi ý: Không nhất thiết buộc phải hiểu theo một cách
nào. Như thế có thể có ba lựa chọn: chọn cách hiểu trong bản dịch, chọn cách hiểu
trong phần chú thích hoặc chủ trương phối hợp cả hai cách hiểu đã nêu. Quan trọng
là đưa ra được lời giải thích hợp lí (căn cứ vào điểm nhìn của tác giả và nội
dung của cả bà thơ).
iII. rèn luyện kĩ năng
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, nhịp 4/3,
lời hàm súc, ý sâu xa. Cần đọc chậm, nghiền ngẫm từng câu, từng chữ để cảm nhận
cái hay, cái đẹp của ngôn từ, hình ảnh và tâm hồn phóng khoáng của nhà thơ.