I. Về thể loại
(Xem bài Những câu hát về tình cảm gia đình).
II. Kiến thức cơ bản
1. Bài 1 “giới thiệu” chú tôi là người hay (nghĩa là giỏi, nhưng cũng có nghĩa là thích,
ham, nghiện) nhiều thứ: nghiện rượu, nghiện chè, lại nghiện cả... ngủ trưa!
Không những thế, chú còn là người rất "giàu ước mơ" - mà toàn mơ để
... không phải đi làm, để ngủ cho đã mắt! Bài ca dao này châm biếm hạng người
sa đà nghiện ngập và lười biếng trong xã hội.
2. Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với
người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn "nói dựa" - thực
chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định
của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha,
con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác
giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc
về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.
3. Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng
cho một loại người: con cò tượng trưng
cho người nông dân, cà cuống tượng trưng
cho những kẻ có quyền bính, chim ri và
chào mào tượng trưng cho đám lính lệ,
chim chích tượng trưng cho anh mõ dưới
chế độ phong kiến. Bài ca có tính chất ngụ ngôn rõ rệt, tác giả dân gian đã mượn
loài vật để phê phán hủ tục ma chay.
4. Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc
biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo
nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai "dấu
hiệu" nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu
hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách
hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng "cậu cai" đi, trong hình
dung chỉ còn chiếc "nón dấu lông gà" (quyền lực) và "ngón tay đeo
nhẫn" (khoe của) có vẻ rất trai lơ!
Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng
có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm
chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.
Về nghệ thuật, khi xây dựng
nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một
từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm
hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng
của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này.
Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân
vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.
iII. rèn luyện kĩ năng
1. Cách đọc
Đây cũng là ca dao trữ tình nhưng tình cảm, thái độ trong
đó không phải là những tình cảm thẳm sâu, day dứt trong tâm hồn (như những bài
ca dao về tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa,...). Giọng điệu ở đây là giọng
châm biếm, giễu cợt,... nên khi đọc cần cao giọng, nhấn mạnh vào các điệp từ, điệp
ngữ (có chủ ý) để làm nổi bật giọng điệu châm biếm, giễu cợt của những câu ca
dao này.
2. Để nhận xét về sự giống nhau của bốn bài ca
dao, em đồng ý với ý kiến nào dưới đây:
a) Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng.
b) Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại.
c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm
biếm.
d) Nghệ thuật tả thực có trong cả bốn bài.
Gợi ý: Câu trả lời xác đáng nhất là ý c.
3.* Những câu hát châm biếm nói trên có điểm gì
giống truyện cười dân gian?
Gợi ý:
- Đều hướng đến châm biếm những hạng người đáng
chê cười về tính cách, bản chất.
- Đều sử dụng một số hình thức gây cười.
- Đều tạo được những tiếng cười sảng khoái cho
độc giả.