Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Bài làm
Tố Hữu là một nhà thơ xuất sắc của thơ ca Việt Nam, ông có nhiều bài thơ nổi tiếng được nhiều bạn đọc biết đến. Một trong số các tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ chính là bài “Việt Bắc”.
Bài thơ “Việt Bắc” được ra đời trong hoàn cảnh tháng 10/1954, khi cuộc kháng chiến chống pháp dành thắng lợi, Trung ương Đảng và chính phủ rời căn cứ Việt Bắc về Hà Nội. Với Tố Hữu, Việt Bắc là nơi ông đã sống và gắn bó suốt thời kì kháng chiến, nay phải từ giã để cùng Trung ương Đảng về với thủ đô. Trong không khí lịch sử ấy và tâm trạng khi chia tay Việt Bắc, tác giả Tố Hữu đã viết lên bài thơ này. Đây là khúc hát giao thời của lịch sử và lòng người. Tố Hữu sáng tác bài thơ này như lời chia tay giữa cán bộ miền xuôi với nhân dân miền núi, cũng là tình cảm thắm thiết với quê hương cách mạng, nhân dân và cuộc kháng chiến.
Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ da diết, mênh mang, trong đoạn trích nhà thơ nhắc tới 35 lần từ nhớ để diễn tả những cung bậc tình cảm khác nhau. Bằng một khung cảnh chia tay với tâm trạng bang khuâng, bồn chồn, bịn rịn, lưu luyến giữa hai người đã từng gắn bó sâu nặng, bền chặt. Người ở lại lên tiếng trước. Vì người ở lại nhạy cảm với khoảng cách thay đổi: sống với nhau gian khổ, khó nghèo nhưng gần nhau với tình cảm sâu nặng thắm thiết. Giờ xa nhau, đi ở nơi nhà cao, phố đông, điện sáng, liệu có còn nhớ thương nghười vùng núi này nữa lông? Trong tiếng sóng vỗ của nỗi niềm kẻ ở, người đi im lặng, lắng nghe “Tiếng ai tha thiết” khiến người đi “bang khuâng”, “bồn chồn”, “cầm tay nhau” không muốn rời xa. Chính những hành động này đã diễn tả sự lưu luyến không muốn rời xa. Sự im lặng nói với ta nhiều điều: cảm xúc trào dâng khiến người ra đi nghẹn ngào không nói được hay điều muốn nói quá nhiều khiến người ra đi không biết nên nói gì…nên đành im lặng? Người ra đi cũng tâm trạng ấy, nhớ thương da diết những kỉ niệm một thời, nên nỗi nhớ không chỉ hướng về người khác mà còn là nỗi nhớ chính mình “Mình đi mình lại nhớ mình”. Nhớ mình trong những ngày kháng chiến từ thời kì ấy.
Trong tiếng việt, “mình” và “ta” khi thì để chỉ ngôi thứ nhất và nhiều khi lại để chỉ ngôi thứ hai hoặc chỉ chung cả hai đối tượng tham gia giao tiếp “chúng ta”. Tác giả đã sử dụng cặp đại từ “mình”, “ta” với cả hai nghĩa một cách sáng tạo, mình và ta có sự hoán đổi cho nhau, để dễ dàng bộc lộ cảm xúc, tình cảm. Qua đó, nhà thơ đã tái hiện phần nào cuộc chia tay đầy lưu luyến. Lời hỏi của người ở lại đã khơi gợi cả một quá khứ.
Người ra đi đã khẳng định với người ở lại một điều rằng sẽ luôn luôn nhớ về quê hương Việt Bắc, nơi ngọn nguồn của cách mạng. Nhớ những kỉ niệm kháng chiến, những ngày tháng gian khổ hy sinh. Nhớ tình nghĩa đồng bào nơi đây. Lời hỏi của người ở lại đã khơi dậy cả một quá khứ đầy kỷ niệm, khơi nguồn mạch thương nhớ, tuôn chảy về những cảnh vật, cuộc sống con người và những kỉ niệm kháng chiến.
Mười câu thơ vẽ liên tiếp những bức tranh rất đẹp. Bốn mùa hoa nở cùng người: mùa đông “hoa chuối đỏ tươi”; mùa xuân “mơ nở trắng rừng”; mùa hè “ve kêu rừng phách đổ vàng”; mùa thu “rừng thu trăng rọi hòa bình”. Thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp thật đa dạng trong thời gian và không gian khác nhau. Mỗi mùa là một bức tranh tươi đẹp, rực rỡ, thơ mộng, hữu tình. Bao trùm tâm trạng của cả kẻ ở và người đi là nỗi nhớ da diết, mênh mông về những kỉ niệm sâu nặng, nghĩa tình trong kháng chiến. Ở đó, hình ảnh thiên nhiên luôn gắn bó với bóng dáng con người, cảnh gắn người, người lại hòa vào cảnh trong từng cặp câu 6-8. Đó là hình ảnh người lên đèo “dao gài thắt lưng”, “người đan nón chuốt từng sợi giang”, “cô em gái hái măng một mình”; “tiếng hát ân tình thủy chung”. Chính hình ảnh những con người trẻ trung, xinh đẹp, đáng yêu và cần cù lao động ấy đã làm cho cảnh vật thiên nhiên hiện lên bớt đi vẻ hoang sợ, hiu hắt và gần gũi với con người. “Hoa và người” đứng cạnh nhau làm tôn thêm vẻ đẹp cho cả người và hoa.
Theo mạch cảm xúc của hoài niệm, bài thơ dẫn chúng ta vào khung cảnh sôi động của Việt Bắc kháng chiến: Những câu thơ hùng tráng tả hình ảnh đoàn quân và đoàn dân quân, với nghệ thuật âm rung vang mạnh mẽ trong các câu “Đêm đêm rầm rập”. Tác giả đã sử dụng biện pháp khoa trương đầy sức mạnh “bước chân nát đá”. Nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, náo nức “rầm rập, đất rung, ánh sao, đỏ đuốc, tàn lửa”.
Nhà thơ đã sử dụng nhiều từ nhớ để nhấn mạnh cảm xúc trong bài thơ. Nhớ “ngọn cờ đỏ thắm gió lồng qua hang”; “Nắng trưa rực rỡ sao vàng”; “Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi”. Bác Hồ chính là ánh sáng soi đường, là niềm tin của nhân dân Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Chúng ta có thể hiểu, nhớ về Việt Bắc chính là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử của cách mạng.
Với giọng điệu trữ tình ngọt ngào, tha thiết của dân ca, ca dao, của điệu thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc. Việt Bắc là tiếng hát ân tình, thủy chung của những người kháng chiến và của cả dân tộc qua tiếng lòng của nhà thơ, thắp sáng lên niềm tin hứa hẹn, khao khát ân tình, đạo lí thủy chung ngàn đời của dân tộc. Việt Bắc thật sự là đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Đây là bản tổng kết bằng thơ chặng đường đi lên của cuộc kháng chiến chống Pháp lâu dài, gian khổ.