Hồi còn sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiên tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ.
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa.
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường.
Thình lình đèn điện tắt
Phòng buyn-đinh tối om
Vội bật tung cửa sổ
Đột ngột vầng trăng tròn
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng về bể
Như là sông là rừng.
Trưng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
A. Kiến thức cơ bản
1.
Tác giả:
-
Nguyễn Duy (1948) quê ở Thanh Hoá.
-
Ông thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc chiến chống Mỹ cứu
nước.
-
Sau chiến tranh, Nguyễn Duy vẫn say sưa và tiếp tục con đường thơ của mình. Thơ
ông ngày càng đậm đà, ổn định một phong cách, một giọng điệu “quen thuộc mà
không nhàm chán”.
-
Thơ Nguyễn Duy có giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn
trở, day dứt, suy tư.
-
Các tác phẩm chính: Cát trắng (thơ 1973), ánh trăng (1978), Mẹ và em (thơ
1987)…
-
Tác giả đã được nhận các giải thưởng: Giải nhất thơ tuần báo “Văn nghệ (1973);
Giải A về thơ của hội nhà văn Việt Nam (1985).
2.
Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ ra đời năm 1978 tại
thành phố Hồ Chí Minh. (Ba năm sau ngày kết thúc chiến tranh, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước).
b. Khái quát nội dung, nghệ thuật:
* Nội dung:
-
Bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời
người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu.
-
Từ đó, gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống
nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.
* Nghệ thuật:
-
Giọng điệu tâm tình, tự nhiên kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự.
-
Hình ảnh giàu tính biểu cảm: trăng giàu ý nghĩa biểu tượng.
c. Thể thơ - Phương thức biểu đạt: Thể thơ 5 chữ -
phù hợp với phương thức biểu đạt kết hợp hài hoà giữa biểu cảm (trữ tình) và tự
sự.
d. Bố cục của bài thơ:
* Mạch vận động cảm xúc: Bài thơ là câu
chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại với các
mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Dòng cảm xúc của nhà thơ cũng được bộc
lộ theo mạch tự sự. Theo dòng tự sự ấy mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện
tại và lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ.
* Bố cục: Bài thơ chia làm 3 phần:
-
3 khổ thơ đầu: ký ức về vầng trăng trong quá khứ của tác giả và trong hiện tại.
-
Khổ 4 tình huống bất ngờ khiến hồi ức lùa về.
-
2 khổ cuối: sự hối hận của tác giả vì đã lãng quên vầng trăng.
e. Nhận xét về sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và yếu tố
trữ:
-
Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một lời tâm tình kể theo trình tự
thời gian. Dòng cảm hứng trữ tình của nhà thơ men theo mạch tự sự đó. ở quãng
thời gian quá khứ đã có một sự biến đổi, một sự thực đáng chú ý: bắt đầu từ hồi
ức về “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với
vầng trăng: “ngỡ không bao giờ quên – cái
vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn cảnh hiện tại: “Từ hồi về thành phố”, con người sống với
những tiện nghi hiện đại mà quên đi vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”.
-
Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư: “Thình lình đèn điện tắt” chính là bước
ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng tròn ở
ngoài kia, trên kia đối lập với “phòng buyn-đinh tối om”. Chính vì xuất hiện
đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên đã gợi ra bao kỷ
niệm nghĩa tình.
B. Phân tích bài thơ:
1.
Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng:
a. Hai khổ thơ đầu, tác giả đã gợi lại những kỷ niệm đẹp,
tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ.
-
Bốn câu thơ gắn với giọng kể thủ thỉ, tâm tình “hồi nhỏ”, “chiến tranh” đã gợi
lại một quãng thời gian dài từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành và nhất
là trong những năm tháng gian lao thời chiến tranh. Cả một quãng thời gian
dài có biết bao kỷ niệm đẹp với trăng. Khổ thơ mở ra một khoảng không gian,
thời gian bao la:
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỷ”
- Cuộc
sống vất vả gian lao nhưng gần gũi với thiên nhiên: “với đồng”, “với sông”,
“với bể”, “ở rừng”.
-
Trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuộc sống bình dị, vô
tư, hồn nhiên và khẳng định tình cảm gắn bó bền chặt của con người với
vầng trăng là “tri kỷ”, “tình nghĩa”.
+ Trăng
là người ban chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những
đau thương, nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu…
+ Trăng
là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như
là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hoà tình nghĩa…
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
-
ở đây vầng trăng được nhân hoá để trở thành người bạn tri kỷ với nhân vật trữ
tình của bài thơ. Với sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm “không
bao giờ quên”. Giọng thơ hồi tưởng đều đặn nhưng từ “ngỡ” như báo hiệu trước sự
xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ.
b. Khổ thơ thứ ba đưa người đọc trở về hiện tại với những
đổi thay trong mối quan hệ của nhà thơ với vầng trăng:
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
-
Tác giả đã tạo ra sự đối lập về hoàn cảnh sống của con người trong hiện đại
với quá khứ. “ánh điện của gương”
là cách nói hoán dụ tượng trưng cho cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong
những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên. Trước đây con người sống với
sông, đồng, bể, rừng, thiên nhiên, còn giờ đây lại sống với những tiện nghi đầy
đủ: ánh điện, cửa gương, phòng puyn-đinh.
-
Từ đó nhà thơ diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người lãng quên
vầng trăng từng một thời là tri kỷ. Cái bạc bẽo vô tình đến với người ta từ từ,
kín đáo, khó nhận ra: “Vầng trăng tri kỷ,
tình nghĩa” trở thành “người dưng qua
đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”
nhưng con người hờ hững, thờ ơ, không còn nhận ra trăng đã từng là người tri
kỷ, tình nghĩa một thời. Con người trong cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc, ấm êm dễ vô
tình hay cũng có thể là cố tình quên đi quá khứ gian khổ, đau thương. Tâm
lý ấy không phải là cá biệt. Thế nên người ta vẫn thường nhắc nhở nhau: “ngọt nbùi nhớ lúc đắng cay”, để không
bao giờ quay lưng lại với quá khứ cao đẹp đầy tình người.
-
Câu chuyện tâm tình được kể rất giản dị, mộc mạc, giọng thơ thì thầm như đang
trò chuyện, giãi bày tâm sự, lời thơ trữ tình, sâu lắng, qua đó tác giả đã thể
hiện những cảm xúc hết sức chân thành. Nhịp thơ chậm, những chữ đầu câu thơ
không viết hoa diễn tả dòng suy nghĩ miên man của nhà thơ.
c. Khổ thơ thứ tư là một tình huống bất ngờ xảy ra làm
chuyển mạch cảm nghĩ của tác giả:
-
Lãng quên vô tình có thể là mãi mãi nếu không có một bất ngờ. Hoàn cảnh
bài thơ được đẩy đến bước ngoặt mới khi “thình lình đèn điện tắt - phòng
buyn-đinh tối om”. Đây là một tình huống rất quen thuộc, rất thực nhưng
cũng tình huống ấy đã tạo nên bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện
chủ đề tác phẩm.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn"
-
Bốn câu thơ với hai từ "thình lình,
đột ngột” được đảo trật tự, tạo nên nhịp thơ nhanh, nhấn mạnh sự việc bất
thường: “đèn điện tắt, phòng tối om”
> < "Vầng trăng tròn" toả sáng. Tình huống bất ngờ đã tạo nên sự
đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Nơi thành phố hiện đại với ánh điện, cửa
gương khiến người ta chẳng mấy khi cần và ít chú ý đến ánh trăng, chỉ đến khi
tắt điện thì mới lại có dịp đối diện với "vầng trăng tròn". Và trong
khoảnh khắc bất ngờ từ bóng tối bước ra ánh sáng, người ta không khỏi ngỡ
ngàng, bàng hoàng khi nhận ra vầng trăng vẫn tròn như xưa, đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn
nguyên không mảy may sứt mẻ. Việc "bật tung cửa sổ" chỉ là một việc
làm theo thói quen. Nhưng khi người và trăng mặt nhìn mặt thì tình xưa nghĩa
cũ dâng trào lên trọn vẹn, đủ đầy - một sự tình cờ mà như được sắp đặt.
Dường như vầng trăng "tròn vành vạnh" vẫn luôn đứng bên cửa sổ chờ
đợi. Trăng xuất hiện đột ngột đã có sức rung động mạnh mẽ làm thức tỉnh
những cảm xúc và đánh thức lương tâm con người.
-
Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc
bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ.
-
Trăng thiên nhiên không phải chỉ khi đèn tắt mưới "đột ngột" xuất hiện.
"Đột ngột" diễn tả trạng thái cảm xúc thảng thốt, bất ngờ của nhà thơ
khi nhận ra trăng vẫn tròn, vẫn toả sáng, vẫn đồng hành cùng con người.
2.
Hình tượng vầng trăng và cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ
a. Khổ thơ thứ năm diễn tả sự xúc động mãnh liệt của nhà
thơ.
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng về bể
như là sông là rừng”
-
Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng
nghĩa của ý thơ.
+ Nhà
thơ đối diện với mặt trăng, người bạn tri kỷ mình đã lãng quên, vầng
trăng đối diện với con người hay nói cách là quá khứ đối diện với hiện
tại; thuỷ chung tình nghĩa đối diện với bạc bẽo, vô tình và lãng
quên để tự thú về sự bội bạc của mình.
+
Đối diện với trăng nhà thơ làm thức tỉnh tình cảm, lương tâm con người:
như nhìn thấy cả mặt trong đó và tư vấn lương tâm, hổ thẹn, ân hận về sự
thay đổi của mình.
-
Cuộc sống đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã làm nhà thơ “rưng rưng”
xúc động vì quá khứ vất vả gian lao nhưng tràn ngập niềm vui cùng với trăng,
với thiên nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng ùa về trong nỗi nhớ.
“rưng rưng” nhưng muốn khóc mà cứ nghẹn ngào…
-
Cuộc sống hiện tại như ngừng lại để con người soi vào quá khứ, vào một
thời họ đã lãng quên - soi vào chính mình. Có quá khứ xa và gần, đất
nước và quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, lao động và chiến đấu, tập
thể và cá nhân. Trăng còn gợi lên hình ảnh của hiện tại, sự giàu đẹp, nỗi
gian lao vất vả còn phải phấn đấu, niềm tin và hy vọng, sự hùng vĩ của thiên
nhiên và sức mạnh của con người trong cuộc sống thông qua một loạt các điệp từ
“như là” cùng nhịp thơ dồn dập, các hình ảnh liệt kê: “như là đồng là bể – như là sông là rừng”. Tất cả làm cho người đọc
thực sự xúc động và hoà chung cảm xúc với trữ tình của bài thơ.
b. Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm sâu sắc và triết
lý nhân sinh của nhà thơ qua hình tượng trăng.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
-
Trong cuộc gặp lại không lời này trăng và người như có sự đối lập. Trưng
đã trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không thay đổi. “Trăng cứ tròn vành vạnh” biểu tượng
cho sự tròn đầy, thuỷ chung, trọn vẹn của thiên nhiên, quá khứ, dù cho con
người đổi thay “vô tình”.
-
ánh trăng còn được nhân hoá “im phăng phắc” không một lời trách cứ, gợi liên
tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng của người bạn thuỷ chung,
tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có thể vô tình quên nhưng
thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
-
Tình cảm của trăng, tấm lòng của trăng chính là tình cảm của những người đồng
chí đồng đội, của đồng bào, của nhân dân. Sự im lặng ấy làm nhà thơ “giật
mình” thức tỉnh, cái “giật mình” của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng,
nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn.
Giật mình để không chìm vào lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con
người giật mình trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách trở về
với lương tâm trong sạch, tốt đẹp.
-
Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, lời sám hối ăn năn dù không cất lên
nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt.
-
Qua đó Ngutyễn Duy muốn gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lý ân
nghĩa thuỷ chung.
“ánh
trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm
sự, lời tự thú, lời nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ
bất ngờ mới lạ.
“ánh
trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm
sự, lời tự thú, lời nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ
bất ngờ mới lạ.
“ánh
trăng” có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bởi lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho
những người lính chống Mỹ mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời –
trong đó có chúng ta.
II. Kết cấu và giọng điệu của bài thơ
“ánh
trăng” không chỉ thành công ở triết lý sâu xa của nhân vật trữ tình mà còn
thành công ở nghệ thuật kết cấu, giọng điệu:
-
Là sự kết hợp hài hoà, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Sự việc trong tự sự dẫn
mạch cho cảm xúc trữ tình, làm cho cảm xúc chân thành, tha thiết.
-
Thể thơ 5 chữ phù hợp với chất tự sự được thể hiện bằng giọng điệu tâm tình,
thấm thía. Cách trình bày các chữ đầu dòng thơ làm cho các sự việc diễn ra liền
mạch về ý tưởng cũng như về hình ảnh thơ.
-
Nhịp thơ khi trôi chảy, tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể; khi ngân nga thiết
tha cảm xúc; lúc lại trầm lắng đầy ắp suy tư.
Kết
cấu, giọng điệu thơ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm tạo nên tính chân thực,
chân thành sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh với người
đọc.
III. Chủ đề bài thơ, chủ đề ấy có liên quan đến đạo lý,
lẽ sống của dân tộc Việt Nam ta:
* Chủ
đề: từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thía
về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối
với thiên nhiên, đất nước bình dị.
* Gợi
lên những suy nghĩ về đạo lý, lẽ sống của người Việt Nam ta: bài thơ
như một câu chuyện riêng nhưng có sức khái quát rất lớn. Nó không chỉ là câu
chuyện của riêng nhà thơ, riêng một người mà là của cả một thế hệ đã trải qua
những năm dài chiến tranh gian khổ, mất mát, đã từng sống giữa thiên nhiên,
sống giữa nhân dân tình nghĩa. Giờ đây sống trong cảnh hoà bình với những tiện
nghi đầy đủ, hiện đại, người ta có thể thay đổi, đánh mất quá khứ, đánh mất
nghĩa tình để rồi một lúc nào đó lại phải ân hận, ăn năn. Câu chuyện nhắc nhở
chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ, đừng bao giờ trở thành những kẻ vô tình, vô
nghĩa, bạc bẽo, vô ơn. “ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi lên đạo lý sống thuỷ chung đã trở thành
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
* Một số câu hỏi xoay quanh bài
thơ
Câu 1: ánh trăng là một nhan đề
đa nghĩa. Hãy phân tích.
- Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của
tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng – người bạn tri âm
với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (Vọng nguyệt – NKTT). Và với bài thơ ánh
trăng, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của
vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.
- Trước hết, ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của
thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. ánh
trăng gần với tuổi ấu thơ của tác giả (d/c). Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc
sống, như đất trời (d/c).
- Nhưng nếu chỉ có vậy, ánh trăng của Nguyễn Duy sẽ lẫn
với vô vàn ánh trăng khác trong thơ ca hiện đại. Cũng giống như trăng của người
bạn tù, vầng trăng của Nguyễn Duy đã thành “tri kỷ”, người bạn tình nghĩa. ánh
trăng thời chiến như chia sẻ những thử thách của chiến tranh, như cùng nhà thơ
và đồng đội trải qua những kỷ niệm của thời “ở rừng”. Vầng trăng tri kỷ, vầng
trăng tình nghĩa ấy: dấu ấn của một thời gian khó: “ngỡ không bao giờ quên”.
- Nhưng nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa
bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình - ký ức gắn với cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước cam go mà hào hùng.
- Cuộc sống hoà bình “ánh điện của gương, buyn đinh” đã
khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng
một thời chiến đấu, từng ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng
quên quá khứ. Nhưng rồi thình lình đèn điện tắt… “đột ngột vầng trăng tròn”.
Vầng trăng ấy đã đánh thức ký ức của tác giả, của thế hệ trẻ Việt Nam trong
những ngày đánh Mỹ, tháng Mỹ.
- ánh trăng lặng lẽ toả sáng trong bài thơ hay lặng lẽ
như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng, không được phép lãng quên quá khứ, có
những thử thách, những hy sinh, những tôn thất thời đánh Mỹ ác liệt mới có cuộc
sống hoà bình ngày hôm nay.
Câu 2: Hình ảnh vầng trăng và
cảm xúc của nhà thơ Nguyễn Duy qua bài thơ “ánh Trăng”.
- Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ là một hình tượng đa
nghĩa.
+ Trước hết, vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên
khoáng đạt, hồn nhiên, tươi mát. Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra
trong không gian của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “hồi
nhỏ sống với đồng” và sau này là “hồi chiến tranh ở rừng”. Lúc ấy, con người
sống giản dị, “trần trụi với thiên nhiên – hồn nhiên như cây cỏ”. Vầng trăng
trở thành người bạn tri kỷ, thành “vầng trăng tình nghĩa” gắn bó trong suốt
những năm tháng từ thuở ấu thơ ở quê nhà, đến hồi chiến tranh sống ở rừng.
Đến khi về thành phố, sống giữa những tiện nghi hiện đại
“quen ảnh điện, cửa gương”, con người bỗng quên đi cái vầng trăng “ngỡ không
bao giờ quên” kia, bỗng vô tình với “cái vầng trăng tình nghĩa” kia. Sự vô tình
đến mức tàn nhẫn:
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
Rồi đến một đêm nào đó:
Thình lình đèn điện tắt… đột ngột vầng trăng tròn.
Con người đã quen với đèn
điện nên quên trăng. Vầng trăng vẫn có đó nhưng "như người dưng qua
đường". Phải đến khi đèn điện tắt, con người mới lại nhìn thấy và nhận ra
vầng trăng. Phải đột ngột như thế. Phải bất ngờ như thế, vầng trăng mới làm
thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng.
“Ngửa mặt lên nhìn mặt”, mặt người và mặt trăng đối diện
nhau. Đó là khoảnh khắc bất ngờ gặp lại “cố nhân”. Khoảnh khắc gặp gỡ đó khiến
hồn người “rưng rưng” cảm xúc. Vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí những hình
ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước.
+ Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng:
biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng
của đời sống.
Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình
ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước, mà còn đánh thức trong tâm trí con
người bao kỷ niệm hồn nhiên của thời tuổi nhỏ, bao kỷ niệm nghĩa tình của một
thời gian lao chiến đấu.
Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu
tượng của hình ảnh vầng trăng:
Trăng cứ
tròn vành vạnh
Kẻ chi người
vô tình
ánh trăng im
phăng phắc
Đủ cho ta giật
mình.
Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”. Đó
là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. “ánh
trăng im phăng phắc”, phép nhân hoá khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một
con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô
cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên đi quá khứ. “ánh trăng im
phăng phắc” nhưng đủ làm để làm con người “giật mình” nhận ra sự vô tình không
nên có, sự lãng quên đáng trách của mình. Con người có thể vô tình, có thể lãng
quên, nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì vẫn nguyên vẹn, vĩnh hằng.
Câu 3: Phân tích 2 khổ thơ cuối
của bài thơ “ánh trăng”
- Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình
cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình
được nữa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính
là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày
nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc – dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự
xúc động cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng.
- Cảm xúc “rưng rưng”: tâm hồn đang rung động, xao xuyến,
gợi nhớ gợi thương. Nhịp thơ
hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang
được sống lại một giấc chiêm bao.
- Sự xuất hiện đột ngột của
vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỷ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc
sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri
kỷ, tình nghĩa.
Khổ thơ kết lại bài thơ bằng
hai vế đối lập mà song song:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
… Đủ cho ta giật mình”
- ở đây có sự đối lập giữa
"tròn vành vạnh" và "kẻ vô tình", giữa cái im lặng của ánh
trăng với sự "giật mình" thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý
nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen
là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho
vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên
nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.
- Hình ảnh "ánh trăng
im phăng phắc" có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta
con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá
khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của
vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái "giật mình" ở câu thơ
cuối. Cái "giật mình" là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một
người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách
sống của mình. Cái "giật mình" của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải
đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ
được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi
rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân
tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì
ra những bài học sâu sắc về đạo lý làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay
từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. ánh trăng thật sự đã như một tấm gương
soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng
ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
Câu 4: Hình ảnh vầng trăng
trong bài thơ tượng trưng cho điều gì? ý nghĩa khái quát của bài thơ “ánh
trăng”.
Gợi ý:
a. Hình ảnh vầng trăng trong
bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu
tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn
nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt
như sông, như đồng, như bể như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng
dãi, hùng vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa
kính, buyn - đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không
gần gũi, không mặn mà với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân
tình, cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con
người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành
vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết
thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể dửng dưng. Nhưng vầng
trăng ấy bao dung, không “kể chi người vô tình”. Chính thái độ lặng im cao
thượng ấy càng làm những ai sớm quên quá khứ nghĩa tình phải giật mình.
b. Bài thơ “ánh trăng” là
tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh
sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình. Những sông,
đồng, biển, rừng là hình ảnh tượng trưng, nhưng cũng là hình ảnh thật của những
người kháng chiến. THành phố là môi trường mới, là hình ảnh thật của những
người kháng chiến không đặt chân tới (trừ các chiến sĩ hoạt động bí mật). Môi
trường mới ???nghỉ mới, hoàn cảnh mới làm cho con người sống cách biệt với
thiên nhiên cũng có nghĩa là xa dần quá khứ, lạnh nhạt dần với quá khứ. ánh
trăng cảnh bao hiện tượng suy thoái về tình cảm, sẽ dẫn đến suy thoái lối sống,
suy thoái đạo đức. Nó nhắc nhở con người cần thuỷ chung với quá khứ, với những
điều tốt đẹp của quá khứ, đừng (có mới nới cũ).
Câu 5: Phân tích đoạt cuối
bài thơ “ánh trăng”
Khổ thơ cuối cùng là nơi tập
trung nhất ý nghĩa – biểu tượng của hình ảnh vầng trăng:
Trăng cứ
tròn vành vạnh
Kể chi người
vô tình
ánh trăng im
phăng phắc
Đủ cho ta giật
mình
- Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”,
đó là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng. Đó còn là hình ảnh tượng trưmg cho vẻ
đẹp và những giá trị truyền thống.
- “ánh trăng im phăng phắc” => phép nhân hoá khiến
hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân
chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người.
“ánh trăng im phăng phắc” nhưng đủ làm để làm con người “giật mình” nhận ra sự
vô tình lãng quên quá khứ tốt đẹp, tức là con người đang phản bội lại chính
mình. Nó còn có ý nhắc nhở con người nên trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và những
giá trị truyền thống.
Câu 6: Phân tích, so sánh hình
ảnh “Trăng” (vầng trăng, mảnh trăng, ánh trăng…) trong các bài thơ “Đồng chí”,
“Đoàn thuyền đánh cá”, “ánh trăng”.
Gợi ý:
Trăng trong cả ba bài thơ đều là hình ảnh thiên nhiên
đẹp, trong sáng, người bạn tri kỷ của con người trong cuộc sống lao động và
chiến đấu, trong sinh hoạt hàng ngày.
- Trăng trong “Đồng chí” là biểu tượng của tình đồng chí,
gắn bó keo sơn trong cuộc sống chiến đấu gián khổ thời kỳ đầu kháng chiến chống
Pháp, biểu tượng của hiện thực và lãng mạn, trở thành nhan đề của cả tập thơ
“Đầu súng trăng treo”.
- Trăng trong “Đoàn thuyền đánh cá” là cánh buồm chuyên
chở và nâng bổng niềm vui hào hứng trong lao động làm chủ tập thể của những ngư
dân đi đánh cá đêm, vẽ nên bức tranh sơn mài biển vàng biển bạc.
“Cái đuôi em quẫy trăng vàng
choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ
Long”
d. Trăng trong “ánh trăng”
là vầng trăng tròn vành vạnh, im phăng phắc đột ngột ùa vào phòng buyn-đinh tối
om trong đêm hoà bình mất điện ở thành phố Hồ Chí Minh đã khiến nhà thơ giật
mình, ân hận, day dứt về suy nghĩ và cách sống hiện tại của mình. ánh trăng như
người bạn thân nhắc nhở, lay tính lương tâm của tác giả: không được vô ơn với
quá khứ, với đồng đội đã hy sinh với thiên nhiên nhân hậu và bao dung.
Câu 7: Chép thuộc lòng đoạn
kết bài thơ “ánh trăng” của Nguyễn Duy. Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ có ý
nghĩa gì? Từ đó em hiểu gì về chủ đề của bài thơ? (viết một đoạn diễn dịch
khoảng 10-12 câu).
Gợi ý:
+ Vầng trăng trong bài thơ
là một hình ảnh đa nghĩa.
+ Vầng trăng là hình ảnh của
thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thời nhỏ tuổi, rồi thời
chiến tranh ở rừng.
+ Vầng trăng là biểu tượng
cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế trăng còn là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời
sống.
- ở khổ thơ cuối cùng, trăng
tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, là người bạn, là nhân
chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta. Con người
có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn
tròn đầy, bất diệt.
5. Từ đó, em hiểu chủ đề của
bài thơ là: Bài thơ là tiếng lòng, là những suy ngẫm thấm thía, nhắc nhở ta về
thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, nghĩa tình đối với
thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở, củng cố
người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.
2. Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài thơ “ánh trăng”.
a. Cảm nghĩ về vầng trăng
quá khứ:
Trước hết là hình ảnh vầng
trăng tình nghĩa, hiền hậu, bình dị gắn liền với kỷ niệm một thời nhà thơ hằng
gắn bó.
- ánh trăng gần với những kỷ
niệm trong sáng thời thơ ấu tại làng quê.
“Hồi nhỏ sống với rừng
Với sông rồi với biển”
-> Những “đồng, sông, bể”
gọi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, có những lúc sung sướng đến
hả hê được chan hoà, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa
ngọt. Trăng khi đso là trò chơi của tuổi thơ cùng với những ước mơ trong sáng.
Con người khi đó sống giản dị, thanh cao, chân thật trong sự hoà hợp với thiên
nhiên trong lành, “trần trụi với thiên nhiên – hồn nhiên như cây cỏ”.
- ánh trăng gắn bó với những
kỷ niệm không thể nào quên của cuộc chiến tranh ác liệt của người lính trong
rừng sâu.
“Hồi chiến
tranh ở rừng
Vầng trăng
thành tri kỷ
Trần trụi
với thiên nhiên
Hồn nhiên
như cây cỏ
Ngỡ không
bao giờ quên
Cái vầng
trăng tình nghĩa”.
-> Trăng khi đó là ánh
trăng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian
lao của cuộc kháng chiến – vầng trăng tri kỷ.
- Bằng nghệ thuật nhân hoá,
Nguyễn Duy đã gợi về trong lòng người đọc cả một ký ức tuổi thơ, một tình bạn
tươi đẹp. Nhân vật trữ tình gắn bó với trăng trong những năm dài kháng chiến.
Trăng vẫn thuỷ chung, tình nghĩa. Dẫu rằng cuộc sống nơi đồng bể là khó khăn
nhưng bằng tình cảm chân thành mộc mạc, cao quý, trăng đến với con người không
một chút ngần ngại. Trăng với người như hai mà một, đều chung thuỷ sắt son.
b. Cảm nghĩa về vầng trăng
hiện tại:
Sau tuổi thơ và chiến tranh,
người lính từ giã núi rừng trở về thành phố – nơi đô thị hiện đại. Khi đó mọi
chuyện bắt đầu đổi khác:
Từ hồi về
thành phố
Quen ánh
điện cửa gương
Vầng trăng
đi qua ngõ
Như người
dưng qua đường.
- Vầng trăng tri kỷ ngày nào
nay đã trở thành “người dưng”, người khách qua đường xa lạ, còn con người đaua
còn son sắt thuỷ chung? => Một sự thay đổi phũ phàng khiến người ta không
khỏi nhói đau. Tình cảm xưa kia nay chia lìa.
+ Hành động “vội bật tung cử
sổ” và cảm giác đột ngột “nhận ra vầng trăng tròn”, cho thấy quan hệ giữa người
và trăng không còn là tri kỷ, tình nghĩa như xưa, vì con người lúc này thấy
trăng như một vật chiếu sáng thay thế cho điện sáng mà thôi.
- Vì sao lại có sự xa lạ,
cách biệt này?
+ Sự thay đổi của hoàn cảnh
sống – không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện sống cách biệt: Từ
hồi về thành phố, người lính xưa bắt đầu quen sống với những tiện nghi hiện đại
như “ánh điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp hoá, hiện đại hoá của điện
gương đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con người. Anh lính đã
quên đi chính ánh trăng đã đồng cam cộng khổ cùng người lính, quên đi tình cảm
chân thành, quá khứ cao đẹp nhưng đầy tình người.
+ Câu thơ dưng dưng – lạnh
lùng – nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy
ra trong cuộc sống. Có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống, tiện
nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng? (liên hệ: bởi thế mà ca dao mới lên
tiếng nói: “Thuyền về có nhớ bến chăng?”. Tố hữu, nhân dân Việt Bắc ở lại cũng
băn khoăn một tâm trạng ấy khi tiễn đưa cán bộ về xuôi.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa
chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đêm còn nhớ mảnh trăng
giữa rừng?
=> Từ sự xa lạ giữa người
với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở: đừng để những giá trị vật chất điều khiển
chúng ta…
c. Niềm suy tư của tác giả
và tấm lòng của vầng trăng
Trăng và con người đã gặp
nhau trong một giây phút tình cờ. Sự đổi thay của con người không làm vầng
trăng cau mặt. Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may
sứt mẻ. “Trăng tròn” là một hình ảnh thơ khá hay, không chỉ là ánh trăng tròn
mà còn là tình cảm bạn bè trong trăng vẫn trọn vẹn, vẫn chung thuỷ như năm xưa.
Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng
tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách
viết thật lạ và sâu sắc!
- Từ cái đối mặt trực diện
ấy, ánh trăng đã thức dậy những kỷ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình cảm
bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên.
- Cảm xúc “rưng rưng” là
biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp
lại bạn tri kỷ. Ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Nhịp thơ hối hả dâng
trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại
một giấc chiêm bao.
“ánh trăng hiện lên đáng giá
biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
… Đủ cho ta giật mình”
- ở đây có sự đối lập giữa
"tròn vành vạnh" và "kẻ vô tình”,
giữa cái im lặng của ánh trăng với sự "giật mình" thức tỉnh của con
người.
+ Trăng tròn vành vạnh,
trăng im phăng phắc không giận hờn trách móc mà chỉ nhìn thôi, một cái nhìn
thật sâu như soi tận đày tìm người lính đủ để giật mình nghĩ về cuộc sống hoà
bình hôm nay. Họ đã quên mất đi chính mình, quên những gì đẹp đẽ, thiêng liêng
nhất của quá khứ để cìm đắm trong một cuộc sống xô bồ, phồn hoa mà ít nhiều sẽ
mất đi những gì tốt đẹp nhất của chính mình.
+ Trăng tròn vành vạnh là
hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. ánh trăng chính là người bạn
nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta :
con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá
khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.
- Sự không vui, sự trách móc
trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái "giật
mình" ở câu thơ cuối. Cái "giật mình" là cảm giá và phản xạ tâm
lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự
nông nổi trong cách sống của mình. Cái "giật mình" cảu sự ăn năn, tự
trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản
thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng
bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng
đồng thời nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong hoà bình, hưởng những
tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao
người đi trước.