I. Kiến thức cơ bản
1. Nhu cầu nghị luận
Để giải quyết các vấn đề được đặt ra dưới đây, em có thể dùng văn
bản tự sự, miêu tả hay biểu cảm được không? Vì sao?
- Vì sao em đi học? (hoặc: Em học để làm gì?)
- Vì sao con người cần phải có bạn bè?
- Theo em, như thế nào là sống đẹp?
- Trẻ em hút thuốc lá là tốt hay xấu, lợi hay hại?
Gợi
ý:
- Văn kể chuyện dùng để làm gì? Văn tự sự dùng để kể lại những sự
việc theo một trật tự nào đấy. Các tình huống trên không đặt ra yêu cầu này.
- Văn miêu tả dùng để làm gì? Văn miêu tả dùng để tái hiện lại sự
vật, hiện tượng để người khác có thể hình dung một cách cụ thể về đối tượng ấy.
Các tình huống trên không đặt ra yêu cầu này.
- Văn biểu cảm dùng để làm gì? Văn biểu cảm dùng để thổ lộ tình
cảm, cảm xúc của người viết trước một sự vật, hiện tượng nào đó. Các vấn đề
được đặt ra ở trên không hướng tới điều này.
Như vậy, với các vấn đề, cũng là các tình huống giao tiếp, đặt ra
ở trên, chúng ta không thể sử dụng văn tự sự, miêu tả hay biểu cảm để giải
quyết. Chỉ có thể giải quyết các vấn đề tương tự như thế này, người ta phải sử
dụng nghị luận như một phương thức
biểu đạt chính, với các lí lẽ chặt chẽ, thuyết phục. Trên thực tế, chúng ta vẫn
thường gặp các tình huống mà không thể không sử dụng nghị luận. Đó có thể là
lời phát biểu, nêu ra ý kiến, có thể là một bài xã luận, bình luận, đánh giá về
một vấn đề nào đó của đời sống.
2. Thế nào là văn bản nghị luận?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Chống nạn
thất học
Quốc
dân Việt Nam!
Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sánh ngu dân.
Chúng hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối
dân ta và bóc lột dân ta.
Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước ta là 95
phần trăm, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ. Như thế thì tiến bộ làm sao
được?
Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí [...]
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của
mình, phải có kiến thức mới để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.
Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ, hãy
góp sức vào bình dân học vụ, như các anh chị em trong sáu, bảy năm nay đã gây
phong trào truyền bá Quốc ngữ, giúp đồng bào thất học.
Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa
biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo,
người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học
tại tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ
ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những
người làm của mình.
Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc
chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong
nước, có quyền bầu cử và ứng cử.
Công việc này, mong các anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức.
Chủ tịch
Chính phủ
nhân dân lâm thời
Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 4,
NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000)
a) Bác Hồ viết bài văn này để làm gì?
Gợi
ý: Trong bài
viết này, Bác vạch rõ tình trạng dân trí chung của xã hội ta từ đó đề cập đến
việc cần thiết phải học tập, kêu gọi mọi người cùng học tập.
b) Hãy tóm tắt những ý chính của bài viết. Tìm các câu văn mang
luận điểm.
Gợi
ý: Các câu văn
mang luận điểm chính của bài văn:
- "Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí"
- "Mọi người Việt Nam
phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để
tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết
chữ Quốc ngữ."
c) Để thuyết phục người đọc, người viết đã làm gì? Hãy liệt kê các
lí lẽ của bài văn.
Gợi
ý: Để tạo sức
thuyết phục cho bài viết, người viết đã triển khai những luận điểm chính với
các lí lẽ chặt chẽ:
- Trước Cách mạng tháng Tám, dưới ách đô hộ của thực dân, nhân
dân ta phải chịu cảnh thất học, mù chữ;
- Nay đã dành được độc lập; để xây dựng đất nước thì không thể
không học, mọi người phải biết đọc, biết viết;
- Biến việc học thành việc làm rộng khắp, với các hình thức cụ thể
có thể áp dụng mọi lúc, mọi nơi.
d) Trong bài văn, tác giả có sử dụng kể chuyện, miêu tả, biểu cảm
không? Vì sao?
Gợi
ý: Để giải
quyết vấn đề "Chống nạn thất học" như trên, không thể sử dụng kể
chuyện, miêu tả hay biểu cảm. Sức thuyết phục chỉ có thể được tạo nên bằng hệ
thống các luận điểm, trình bày với lí lẽ lôgic, chặt chẽ. Nhiệm vụ giải quyết
vấn đề đặt ra đòi hỏi phải sử dụng nghị luận.
đ) Văn bản nghị luận là gì?
Gợi
ý: Văn bản
nghị luận là loại văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một
tư tưởng, quan điểm nào đó bằng những luận điểm rõ ràng, với lí lẽ chặt chẽ,
dẫn chứng xác thực.
II. Rèn luyện kĩ năng
1. a) Bài văn dưới đây có phải là bài văn nghị luận không? Vì sao?
Cần tạo ra
thói quen tốt trong đời sống xã hội
Có thói quen tốt và thói quen xấu. Luôn dậy sớm, luôn đúng hẹn,
giữ lời hứa, luôn đọc sách,... là thói quen tốt.
Hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự là thói quen xấu. Có người
biết phân biệt tốt và xấu, nhưng vì đã thành thói quen nên rất khó bỏ, khó sửa.
Chẳng hạn vì thói quen hút thuốc lá, nên cũng có thói quen gạt tàn bừa bãi ra
nhà, cả trong phòng khách lịch sự, sạch bong. Người biết lịch sự thì còn sửa
một chút bằng cách xin chủ nhà cho mượn cái gạt tàn.
Một thói quen xấu ta thường gặp hàng ngày, ở bất cứ đâu là thói
quen vứt rác bừa bãi. Ăn chuối xong cứ tiện tay là vứt toẹt ngay cái vỏ ra cửa,
ra đường... Thói quen này thành tệ nạn... Một xóm nhỏ, con mương sau nhà thành
con sông rác... Những nơi khuất, nơi công cộng, lâu ngày rác cứ ùn lên, khiến
nhiều khu dân cư phải chịu hậu quả mất vệ sinh nặng nề.
Tệ hại hơn có người có cái cốc vỡ, cái chai vỡ cũng tiện tay ném
ra đường. Vì thế trẻ em, cụ già giẫm phải, chảy máu chân rất nguy hiểm.
Tạo được thói quen tốt là rất khó. Nhưng nhiễm thói quen xấu thì
dễ. Cho nên mỗi người, mỗi gia đình hãy tự xem lại mình để tạo ra nếp sống đẹp,
văn minh cho xã hội?
(Theo Băng
Sơn, Giao tiếp đời thường)
Gợi
ý: Có vấn đề
nào được đưa ra và giải quyết trong bài văn này không? Tác giả nêu lên ý kiến
nào? Có mục đích thuyết phục người đọc về ý kiến ấy không?
Văn bản trên là một văn bản nghị luận. Tác giả bàn đến vấn đề tập
thói quen tốt, loại bỏ những thói quen xấu trong đời sống hàng ngày.
b) Tóm tắt những ý chính của bài văn. Để tạo cho bài văn có sức
thuyết phục, người viết đã trình bày các luận điểm với lí lẽ và dẫn chứng như
thế nào?
Gợi
ý:
- Luận điểm chính của bài văn thể hiện ở:
+ Có người biết phân biệt
tốt và xấu, nhưng vì đã thành thói quen nên rất khó bỏ, khó sửa.
+ Tạo được thói quen tốt là
rất khó. Nhưng nhiễm thói quen xấu thì dễ. Cho nên mỗi người, mỗi gia đình hãy
tự xem lại mình để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội.
- Luận điểm chính trên được triển khai với các lí lẽ:
+ Trong cuộc sống, có thói quen tốt (dẫn chứng: dậy sớm, luôn đúng
hẹn, giữ lời hứa, luôn đọc sách...) và có thói quen xấu;
+ Cái gì đó mà thành thói quen thì rất khó sửa;
+ Thói quen xấu sẽ gây hại đến cộng đồng, tác động tiêu cực đến
môi trường sống;
(Dẫn chứng: Hút thuốc lá, hay cáu giận, mất trật tự; vứt rác bừa
bãi, rác cứ ùn lên, khiến nhiều khu dân cư phải chịu hậu quả mất vệ sinh nặng nề,
có người còn có cái cốc vỡ cũng tiện tay ném ra đường. Vì thế trẻ em, cụ già
giẫm phải, chảy máu chân rất nguy hiểm,...)
+ Hãy tự xem lại mình để loại bỏ thói quen xấu, tạo ra nếp sống
đẹp, văn minh cho xã hội.
c) Vấn đề mà bài viết trên bàn bạc có đúng với thực tế của đời
sống không? Những gì mà người viết giải quyết trong bài viết có ý nghĩa như thế
nào?
Gợi
ý: Vấn đề bảo
vệ môi trường, giữ gìn nếp sống văn minh có phải là vấn đề nóng bỏng hiện nay
không? Em có hay được nghe nói đến vấn đề này trên các phương tiện thông tin
không? Với việc đó nên tán thành hay phản đối?
2. Nhận xét về bố cục của bài văn trên.
Gợi
ý: Có thể chia
bài văn thành mấy phần? Nội dung chính của từng phần là gì?
Bài văn có bố cục 3 phần: Mở bài (Nêu vấn đề thói quen và thói quen
tốt); Thân bài (Tác hại của thói quen xấu và việc cần thiết phải loại bỏ thói
quen xấu); Kết bài (Kêu gọi mọi người loại bỏ thói quen xấu, tự điều chỉnh mình
để tạo ra nếp sống đẹp, văn minh cho xã hội.)
3. Sưu tầm thêm một số văn bản nghị luận mà em biết.
Gợi
ý: Tìm trên
những tờ báo mà em đang có (hoặc mượn của người khác) để chép lại các đoạn văn
theo yêu cầu.
4. Bài văn sau đây có phải là văn bản nghị luận không?
Hai biển hồ
Người ta bảo ở bên Pa-le-xtin có hai biển hồ... Biển hồ thứ nhất
gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như
xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi.
Ai cũng đều không muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Ga-li-lê. Đây là biển hồ
thu hút nhiều khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát
rượi, người có thể uống được mà cá cũng sống được. Nhà cửa được xây cất rất
nhiều ở đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này.
Nhưng điều kì lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn
nước từ sông Gioóc-đăng. Nước sông Gioóc-đăng chảy vào biển Chết. Biển Chết đón
nhận và giữ riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên
mặn chát. Biển hồ Ga-li-lê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng rồi từ
đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong hồ này luôn sạch và
mang lại sự sống cho cây cối, muông thú, con người.
Một định lí trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình: Một ánh lửa sẻ
chia là một ánh lửa lan toả, một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh
lợi. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban,
tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.
Thật bất hạnh cho ai cả đời chỉ biết giữ cho riêng mình. "Sự
sống" trong họ rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nước trong lòng biển
Chết...
(Theo Quà tặng của cuộc sống)
Gợi
ý: Mặc dù có
sử dụng tự sự nhưng văn bản trên vẫn là một văn bản nghị luận. Kể chuyện
"Hai biển hồ" là để luận bàn về hai cách sống: cách sống chỉ biết giữ cho riêng mình và cách sống
biết sẻ chia cùng mọi người. Hình ảnh
hai biển hồ mang ý nghĩa tượng trưng cho hai cách sống đối lập nhau ấy.