I. Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Bà Huyện Thanh Quan (? - ?), tên thật là Nguyễn
Thị Hinh, người làng Nghi Tàm nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm tri
huyện Thanh Quan (thuộc Thái Bình ngày nay), do đó có tên gọi là Bà Huyện Thanh
Quan. Bà là một nữ sĩ vào loại tài danh hiếm có thời phong kiến. Tác phẩm của bà
hiện còn lại sáu bài thơ trong đó có bài Qua Đèo Ngang nổi tiếng.
2. Thể loại
Bài thơ này được viết theo thể thất ngôn bát cú. Đây là một
trong hai dạng cơ bản, phổ biến nhất của thơ Đường luật, gồm thất ngôn bát cú
(7 chữ, 8 câu) và thất ngôn tứ tuyệt (7 chữ, 4 câu). Thơ thất ngôn bát cú Đường
luật có những quy định rất chặt chẽ về bố cục (tổ chức cơ bản về nội dung và hình
thức), luật (quy định về vần, thanh trong cả bài, đối giữa các cặp câu 3 - 4, 5
- 6), niêm (sự liên kết giữa các câu 1 - 8, 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7).
II. Kiến thức cơ bản
1. Nhận dạng thể thơ của bài Qua Đèo Ngang
về số câu, số chữ, về cách gieo vần và về phép đối.
Gợi ý: Dựa vào phần giới thuyết thể thơ ở trên, tự
kiểm tra về số câu, số chữ, cách gieo vần và phép đối của bài thơ.
2. Cảnh vật được miêu tả và lúc chiều tà. Thời
điểm đó dễ gợi lên tâm trạng buồn, cô đơn nhất là với người lữ thứ.
3. Cảnh Đèo Ngang được miêu tả gồm những chi
tiết: cỏ cây, hoa lá, dãy núi, con sông, cái chợ, mấy túp nhà, tiếng chim quốc,
chim đa đa, có vài chú tiều phu. Các chi tiết này cho thấy cảnh Đèo Ngang um tùm,
rậm rạp. Con người thì ít ỏi, thưa thớt. Các từ láy: lom khom, lác đác,
các từ tượng thanh: quốc quốc, đa đa có tác dụng lớn trong việc gợi hình,
gợi cảm và càng gợi lên cảm giác hoang vắng, quạnh hiu.
4. Cảnh Đèo Ngang là cảnh thiên nhiên, núi đèo
bát ngát, thấp thoáng có sự sống của con người nhưng rất hoang sơ. Cảnh được miêu
tả vào lúc chiều tà, lại được nhìn từ tâm trạng của kẻ xa quê nên cảnh gợi lên
cảm giác buồn, hoang sơ, vắng lặng.
5. Có thể thấy, ấn sâu kín trong bức tranh thiên
nhiên là tâm trạng của người lữ thứ (Bà Huyện Thanh Quan). Đó là tâm trạng buồn,
cô đơn, hoài cổ. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tiếng kêu da diết của chim quốc,
chim đa đa cũng chính là tiếng lòng tha thiết nhớ nhà, nhớ quá khứ của đất nước.
Câu thơ cuối cùng chính là cao trào của nỗi buồn, nỗi cô đơn của người khách xa
quê.
6. Giữa cảnh trời, non, nước và một
mảnh tình riêng có quan hệ đối lập nhau. Cảnh càng rộng lớn thì tình càng cô
đơn, con người càng nhỏ bé. Như thế, rõ ràng cảnh góp phần khiến nỗi cô đơn của
tác giả càng lớn hơn, nặng nề hơn.
III. Rèn luyện kĩ năng
1. Cách đọc
Đọc một bài thơ thất ngôn bát cú, trước hết phải chú ý đọc
đúng nhịp (4/3), sau nữa là chú ý đến phép đối trong hai cặp 3 - 4, 5 - 6. Riêng
với bài thơ này, cần chú ý đọc chậm, diễn cảm, thể hiện được nỗi buồn sâu lắng
của tác giả.
2. Tìm hàm nghĩa của cụm từ ta với ta.
Gợi ý: nghĩa của từng từ và của cả cụm là:
- Từ ta thứ nhất và từ ta thứ
hai đều chỉ bản thân người nói.
- Vì thế, ta với ta có nghĩa là không có
ai khác (chỉ có một mình tác giả mà thôi).