Tìm Kiếm

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã
bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những
phút giây đau xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình
vào trong thơ, những phút giây ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của
tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ
Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái
tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình
riêng đã ở trong mối tình chung mà hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Phân tích khổ thơ thứ 2 trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”
Phân tích bài thơ đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử
Phân tích khổ thơ (4 câu) đầu trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử
Cảm nhận của em về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử
Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử
Đặc điểm về nghệ thuật của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
BÀI GIẢNG - ĐÂY THÔN VĨ DẠ - HÀN MẶC TỬ
Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử
Bình giảng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Bình giảng khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
   Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc
Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung
cảnh thiên nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể
hòa vào nhau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật
trữ tình:
                   Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
   Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa
bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối
của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp
mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ
mộng, một phương diện của cảnh Huế.
   Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

                   Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
                   Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
                   Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

   Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu
tiên đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở
trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn
đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau
cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh
nắng vàng buổi bình minh. Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi
một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta
nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài Xuân lòng:
                   Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
                   Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
                   Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
                   Và chảy tan qua kẻ lá cành chanh.
   Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một
năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia
nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê mà trước hết nó chiếu vào những
vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như
những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:

                    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

    “Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự
ngạc nhiên đến thẩn thờ”. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân
đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn
tược hiện ra, nhắm mắt vào ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt
mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ
đẹp mà nó còn tràn trề sự sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được
sương đêm gội rửa trở thành cành vàng lá ngọc. Không phải xanh mượt,
cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diễn tả
được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quý,
không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp
lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn
cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên
sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét
màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một
tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có
được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở Việt
Nam, đặc biệt là ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

                    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

    Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhánh lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại
có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon
thả che ngang khuôn mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” – khuôn mặt ấy chỉ hiện
ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
    Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả
cảnh làng quê ở khổ đầu đã hé mở tình yêu, tác gỉ chuyển sang tả cảnh sông,
với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

                    Gió theo lối gió, mây đường mây
                    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
                    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
                    Có chở trăng về kịp tối nay?

    Gió và mây đã gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn
hơn: gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa
nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà
thơ với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà
thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người
xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, giã biệt đọng lại trong lòng
người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn
thấy giọng thơ tươi mát đầy sức sống như ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại
Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:

                    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

    Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp
màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như
Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lửng lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn
thiu” gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong
một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con
người sống trong vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá
gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số
kiếp con người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta
đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng thời với Hàn Mặc
Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt
thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

                    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
                    Có chở trăng về kịp tối nay?

   Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh
vật thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống
dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo.
Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn
thiu” đã hóa thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã hóa
thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng
trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Ý thơ lồng
trong ngôn ngữ thơ thật là tài hoa, thật là thơ đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác
giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa
cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này
là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình quê chưa bị phôi
pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không
giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:
                    Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
                    Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô.
hay:
                    Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                    Đợi gió đông về để lả lơi.
   “Trăng trở thành một khí quyển bao la mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của
Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông”. Nó là ông, là trời đất,
là người ta. Trăng biến hóa vô lường trong thơ ông, khi hữu thế khi vô hình,
khi mê hoặc khi kinh hoàng.
   Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây sông là sông
trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:

                    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
                    Có chở trăng về kịp tối nay?

   Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền
không kịp chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng
của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình
nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi. Vầng trăng không về kịp
và Hàn Mặc Tử cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một
năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.
   Nhưng hiện tại, con người còn đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

                   Mơ khách đường xa, khách đường xa,
                   Áo em trắng quá nhìn không ra;
                   Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                   Ai biết tình ai có đậm đà?

   Trái tim khao khát yêu thương, nhưng nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông
đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc
mơ ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn
vào đó tác giả thấy choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh
khiết, cao quý của người yêu.
   Hình như giữ những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng
cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

                   Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                   Ai biết tình ai có đậm đà?

   Câu thơ tả thực cảnh Huế, Huế – kinh thành sương khói. Trong màn
sương khói đó có như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ
không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong những câu thơ
ấy. những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời
quá, liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về
tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ hỏi:

                   Ai biết tình ai có đậm đà?

   Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hi vọng,
đó chỉ là sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao
giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm
ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thẩn thức. Cả bài thơ được liên
kết bởi từ “ai”, mở đầu: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; tiếp đến
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” và kết thúc: “Ai biết tình ai có đậm đà?”
càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.
   Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê đất
nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà
thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người.
   Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng
hổi, lay động day dứt lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con
người đau thương ấy có sức bay bổng lạ kì” nhưng nó cũng giản dị, trong
sáng, tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành kính thắp một nén nhang
trước một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn thức vì tình yêu,
một tâm hồn thi sĩ đã thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình
thành những đóa hoa thơ mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là
Đây thôn Vĩ Dạ.