Nguyễn Du đến với Tiểu Thanh cũng “định mệnh” như Thuý Kiều đến với
Đạm Tiên vậy. Ngày tết Thanh minh mà sao sắc xuân không đến với Đạm Tiên
trên nấm cỏ:
Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Sắc cỏ vàng úa giữa mùa xuân thật hợp cho cuộc gặp gỡ giữa hai con
người có tên trong sổ đoạn trường. Nguyễn Du với Tiểu Thanh không chỉ là
sự cách biệt âm dương. Đó còn là sự cách biệt của khoảng cách thời gian
vời vợi : ba trăm năm lẻ. Nhưng không phải vì có nhiều khoảng cách mà
thiếu đi sự cảm thông. Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du chính là tiếng
lòng vượt lên bao khoảng cách để mà cảm thông và thương xót cho một kiếp
người.
Nguyễn Du gặp gỡ Tiểu Thanh mà sao giống như cuộc gặp trong định
mệnh. Đó là cuộc gặp gỡ giữa hai người tài hoa và đầy duyên nợ với văn
chương :
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Cảnh được tả thật hoang tàn. Nguyễn Du nhắc đến một địa danh trong
câu thơ thứ nhất : Tây Hồ (Tây Hồ thuộc tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc),
nơi có núi Cô Sơn, chỗ Tiểu Thanh, một cô gái sắc tài nhưng bất hạnh
từng sống. Một sự đổi thay được cảm nhận như là bước đi của lẽ đời dâu
bể. Đó là sự đổi thay tuyệt đối từ quá khứ sang hiện tại, từ vườn hoa
thành gò hoang và từ có đến không. Từ tẫn trong nguyên bản “hoa uyển tẫn
thành khư” gợi sự thay đổi dữ dội, khốc liệt : thay đổi hết, không còn
chút dấu vết gì. Hoá ra câu thơ không phải nói lẽ đời dâu bể. Nguyễn Du
đang thương cho cái đẹp bị dập vùi. Câu thơ mới chỉ tả cảnh mà đã gợi
đến bao nỗi xót xa. Toàn bộ câu chuyện đau thương năm xưa về nàng Tiểu
Thanh hiện về. Câu thơ nói chuyện riêng tư nhưng cũng là nỗi lòng nhân
thế.
Câu thơ thừa đề mới thực là cuộc gặp gỡ của Nguyễn Du:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ)
Khi còn sống, Tiểu Thanh có làm một tập thơ (Tiểu Thanh kí) để ghi
lại nỗi xót xa, lẻ bóng của mình. Khi nàng tự vẫn, vợ cả đem ra đốt, may
còn lại vài bài. Vậy ra cuộc viếng thương Tiểu Thanh không phải diễn ra
tại Cô Sơn. Sự tiếc thương của Nguyễn Du đã vượt qua khoảng cách thời
gian, không gian (chỉ viếng nàng qua tập sách đốt còn dang dở). Câu thơ
tiếp tục khơi vào số phận bất hạnh của Tiểu Thanh. Phần dư cảo của Tiểu
Thanh kí phải chăng cũng chính là cuộc đời tan vụn của nàng ? Tan vụn
nhưng chưa vĩnh viễn mất đi, tan vụn nhưng vẫn còn vương lại để mà tiếp
tục giận hờn oán trách.
Tiểu Thanh đẹp mà bất hạnh, tài năng mà yểu mệnh. Đó có phải là số
mệnh của những kẻ nhan sắc lại tài hoa ? Day dứt ấy ám ảnh Nguyễn Du cả
một đời :
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Hai câu thơ khái quát lại nỗi oan trái của Tiểu Thanh. Son phấn là
nỗi oan của sắc. Văn chương là nỗi oan của tài. Hai vật vô tri được nhân
cách hoá để có thần, có mệnh, làm nên cái thần, cái mệnh của Tiểu
Thanh. Tập sách kia dẫu có bị đốt đi nhưng cuộc đời Tiểu Thanh vẫn luôn
hiển hiện để mà tiếp tục kêu than, đau đớn thay cho những kiếp như mình.
Hai câu thơ viết bằng cảm hứng xót xa và ngợi ca cái đẹp, cái tài.
Bốn câu thơ sau là hai sự đổi thay về ý. Từ thương một người con gái
tài hoa, Nguyễn Du thương cho muôn kiếp tài hoa ; từ thương người,
Nguyễn Du ngậm ngùi trong nỗi thương mình.
Nỗi oan, nỗi hận của Tiểu Thanh được Nguyễn Du khái quát thành nỗi hờn, nỗi oan của bao kẻ cùng hội cùng thuyền :
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Câu thơ chất chứa bao nỗi hờn kim cổ thành một câu hỏi lớn treo lơ
lửng giữa không trung không lời đáp. Tại sao khách má hồng lại gặp nỗi
truân chuyên ? Tại sao những kẻ tài hoa lại hay yểu mệnh ? Câu thơ là
nỗi lòng nhân thế, là những nghịch cảnh thường gặp trong cuộc đời :
khách phong lưu lại phải oan, phải khổ. Câu hỏi như hướng vào vô vọng,
không lời đáp. Nỗi hận, nỗi oan cũng vì thế mà càng nhức nhối.
Sau này khi đến thăm chùa Tây Phương, Huy Cận còn nhìn thấy nỗi hờn của thời đại Nguyễn Du hiện trên mặt tượng đầy bế tắc:
Một câu hỏi lớn không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau
Hai câu luận còn là một sự nhập thân. Đó là sự nhập thân tự nguyện
của Nguyễn Du với những kiếp tài hoa bạc mệnh : “Phong vận kì oan ngã tự
cư”. Chữ ngã ở đây có nghĩa là “tôi”, “ta”. Bản dịch, dịch thành
“khách” là chưa đạt. Nhưng cũng phải đến hai câu kết, chủ thể trữ tình
mới hiện ra rõ nét :
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Hai câu cuối lạ, chuyển ý bất ngờ, niêm luật không chú trọng mà không
lạc dòng cảm xúc. Ý tứ đến cũng tự nhiên và hợp lí. Từ thương người,
Nguyễn Du chuyển mạch đến thương mình. Hai câu thơ kết cấu thành một câu
hỏi. Câu hỏi hướng đến những điệu hồn tri âm. Không hỏi quá khứ, không
hỏi hiện tại, vì quá khứ và hiện tại đều bế tắc. Câu hỏi hướng đến tương
lai. Nguyễn Du cũng không hỏi trời, ông hỏi người vì còn mong ở đời có
thể tìm thấy những tri âm. Với nàng Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có
một Nguyễn Du “thổn thức”, không biết “với mình” liệu ba trăm năm sau có
ai biết đến mà cảm thông ? Câu thơ trĩu nặng. Hai từ bất tri (không
biết) đầy tủi hổ tưởng có thể buông xuôi. Nhưng câu thơ vẫn là một niềm
tin. Nguyễn Du vẫn tin ở nhân tâm của con người.
Thơ hoài cổ thường là tiếng khóc dành cho những cố nhân. Thơ Nguyễn
Du không hoàn toàn như vậy. Nhớ đến, thương đến cố nhân, tác giả chạnh
lòng thương chính bản thân mình và những người nghệ sĩ. Nó chính là khởi
nguồn cho cảm hứng nhân văn cao cả của bài thơ.
Độc Tiểu Thanh kí còn là sự day dứt cả đời của Nguyễn Du. Đó là niềm
day dứt của thi nhân về nỗi bấp bênh của thế thái nhân tình. Niềm day
dứt ấy phải vì thế mà ôm trọn sự bế tắc của “thời đại Nguyễn Du”.
Tìm Kiếm
Home » Unlabelled » Cảm nghĩ về bài thơ “Độc tiểu thanh ký” – bài mẫu 3