Sự phong phú của tiếng Việt qua những áng thơ hay (Dàn Bài Chi Tiết).
(Dàn Bài Chi Tiết này đã được dùng để thuyết trình ngày Thứ Bảy 14 tháng 8 - - Do Ban đại diện các TT Việt Ngữ tổ chức tại Coastline Community College, Westminster, Nam Calif. Sau đó, bài thuyết trình cũng được dùng để nói tại Đại Học Berkeley trong hai lớp khác nhau từ 12PM tới 3PM, ngày Thứ Hai 18 tháng 10 năm 2010, ở miền bắc California.)
I. NHẬP ĐỀ:
1- Ở đâu, miền Nam hay Bắc, quá khứ hay hiện tại, cũng có nhiều áng thơ hay. Tuy nhiên, vì thời lượng có hạn, nên bài nói chuyện này sẽ chỉ dẫn chứng thi ca miền Nam Việt Nam và, thời gian từ 1954 tới hôm nay.
2- Tiếng Việt thuộc loại Đơn-âm (Monosyllabic). Không phải Đa-âm (Polysyllabic) như tiếng Anh hay tiếng Pháp.
3- Tuy nhiên, tiếng Việt phong phú hơn các loại đơn âm khác, bởi vì ngoài 5 dấu, còn có 3 dấu chữ là ư", "ơ" và ô”. Bên cạnh đó, cũng chỉ tiếng Việt mới có những từ kép, như xa vắng, buồn bã, lạnh lùng, bâng khuâng, v.v…
Thí dụ:
Ngày vui xê xích hai hàng
Tháng so le đếm bờ ngăn bến rào.
(Thơ Bùi Giáng / bài Thưa em Saigòn.”)
II. CHỨNG MINH SỰ PHONG PHÚ CỦA TIẾNG VIỆT QUA CÚ PHÁP VÀ, THI CA.
A- Văn Phạm hay Cú Pháp.
Nói tới văn chương hay thi ca là, nói tới văn viết. Mà, nói tới văn viết thì trước nhất, phải nói tới Văn Phạm, hay Cú pháp.
- Nói tới văn phạm hay cứ pháp là nói tới những yếu tố căn bản cấu tạo thành 1 câu (one sentence) hay một mệnh đề (one clause) đầy đủ.
- Một mệnh đề đầy đủ là mệnh đề phải có đủ 3 yếu tố:
(1) Chủ Từ (thường là nhân xưng đại danh từ.)
(2) Động Từ.
(3) Bổ túc từ (thường là tính từ.).
Thí dụ:
Nắng Saigòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.
(Nguyên Sa / bài Áo lụa Hà Đông.”)
Trong câu thơ thứ nhất, chúng ta có:
- Anh là Nhân xưng đại danh từ. Anh” là Chủ từ / Subject (tức 1)
- Đi là Động từ / Verb (tức 2.)
- Chợt Mát là Bổ túc từ / Complement (tức 3.)
1-Nhân Xưng Đại Danh Từ / Person-Pronoun. (Viết tắt NXĐDT)
a- Như tiếng Anh, NXĐDT của tiếng Việt có 3 ngôi:
- Ngôi thứ nhất: Tôi. Ta. Tao. Tớ…
- Ngôi thứ nhì: Anh. Chị. Cậu. Đằng ấy…
- Ngôi thứ ba: Nó. Hắn. Y. Thị…
b- Như tiếng Anh, NXĐDT của tiếng Việt cũng có số nhiều và số ít.
Thí dụ:
-Tôi, Ta, Tao, Tớ (ngôi thứ nhất, số ít) / Chúng tôi, Chúng ta, Chúng tao (ngôi thứ nhất, số nhiều)
- Anh / chị (ngôi thứ nhì số ít.) / Các anh / các chị (ngôi thứ nhì, số nhiều.
-Nó, hắn (ngôi thứ ba, số ít.) / Chúng nó, bọn bay, bày, lũ… (ngôi thứ ba số nhiều.)
c- Trong khi đó, tiếng Anh chỉ có I” cho ngôi thứ nhất số ít. We” cho
ngôi thứ nhất số nhiều. You” cho ngôi thứ hai – Dùng cho cả số ít
lẫn số nhiều. Và He / She” cho ngôi thứ ba số ít. They”, số nhiều,
dùng cho cả nam lẫn nữ.
d- Đặc biệt, tiếng Việt còn phong phú hơn nữa, khi chúng ta có những nhân xưng đại danh từ tính theo bậc thang tuổi tác, hoặc theo trật tự cành nhánh của gốc cây gia tộc, nội ngọai. Như:
1- Chúng ta xưng Anh hay Chị với những người nhỏ tuổi hơn.
2- Chúng ta xưng Cháu” hay Con” với những người có số tuổi có thể
ngang bằng ông, bà, cha, mẹ, chú, bác dì, dượng, cậu mợ chúng ta.
-Thí dụ bằng thơ cho ngôi thứ nhất (số ít):
Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng.
(Thơ Đinh Hùng / bài Mộng dưới hoa.”)
-Hay ngôi thứ nhất (số nhiều):
Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt
Dăm bảy nụ cười không xóa nổi ưu tư
Tay quờ quạng cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòe ra chẳng có một âm thừa.
(Thơ Nguyên Sa / bài Bây giờ.”)
-Thí dụ bằng thơ cho ngôi thứ nhì (số ít):
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.
(Thơ Tô Thùy Yên / Bài Ta về.”)
-Hay ngôi thứ nhì (số nhiều):
tụi bay muốn sống? - Quên cho lẹ
mũ đỏ, đen gì cũng đã xong.
tao cam phận kiếm tô canh cặn,
bay rồi cũng thế !- Liệu nghe con.
(Thơ Du Tử Lê / bài Nhìn nhau chợt thấy ra sông núi.”)
- Thí dụ bằng thơ cho ngôi thứ ba (số ít):
Hay là đêm ấy Ngưu lìa Chức
Xé nát da mình lau mắt ai?
Còn được gì đâu cho mặt trống
Đập lên hoang vắng đến ghê người
(Thơ Vũ Hoàng Chương / bài Ba kiếp lang thang.”)
-Hay ngôi thứ ba (số nhiều):
Mai mốt ta về sao gặp đủ
Những thằng em dại bỏ đi hoang
Những cô con gái ngày hai bữa
Chưa biết rời chân bước khỏi làng.
(Thơ Lâm Hảo Dũng / bài Gởi em áo bạc.”)
e- Tiếng Anh cũng không phân biệt nam / nữ như hệ thống NXĐDT của tiếng Việt. Họ chỉ có một chữ I” và You” mà thôi. Trong khi tiếng Việt, chúng ta có: Anh / Chị. Ông / Bà. Cô / Chú. Dì / Dượng v.v…
Thí dụ:
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc.
(Thơ Nguyên Sa / bài Tháng sáu trời mưa.”)
2- Động Từ / Verb.
- Như đã nói, tiếng Việt là tiếng đơn âm, nhưng có nhiều tiếng kép. Nhờ thế, tiếng Việt trở nên phong phú hơn bất cứ một ngôn ngữ đơn âm nào khác.
- Tính chất tiếng-kép của ngôn ngữ Việt không chỉ có với các danh từ mà, nó cũng có với các động từ, tính từ nữa. Thí dụ:
Động từ chia”, chúng ta có một lọat những tiếng đi theo sau chữ chia” như: Chia đôi. Chia tay. Chia lìa. Chia phôi. Chia ly v.v… Trong khi tiếng Anh chỉ có một chữ thông dụng nhất là To separate.” Ta cũng tìm thấy rất nhiều động từ chia tay, chia ly, chia phôi, chia xa, chia tan…trong những bài thơ hay của Việt Nam.
-Thí dụ
Sao người không là một con đường
Sao tôi không là một ga nhỏ
Mà cũng có những giờ gặp gỡ
Cũng có những giờ chia tan?
(Thơ Nguyên Sa / bài Tiễn biệt.”)
3- Tính từ / Adjective:
Về tính từ (có người còn gọi là hình-dung-từ,) thì tiếng Việt còn phong phú hơn nữa với những tiếng kép như: Xấu xa, xấu xí, hay dối gian, dối trá, dối gạt… v.v…Trong khi tiếng Anh người thường chỉ dùng một chữ bad”
để chỉ cái xấu; và chữ false” để chỉ điều dối trá.
Về chữ dối trá hay dối gian, trong thơ chúng ta có:
Người cũng vậy lòng muôn nghìn dối trá
Vờ thương yêu vờ đắm đuối ân tình
Tôi trót dại tin lời trao tất cả
Đâu biết người mang nửa dạ yêu tinh
(Thơ Nhã Ca / Bài Bài tháng sáu.”)
Ngay tính từ wild” của tiếng Anh, nếu chuyển sang Việt cũng có rất nhiều từ kép, cùng nghĩa như: Hoang vắng, hoang sơ, hoang tàn, hoang dã, hoang liêu…
Thí dụ:
thôi nước mắt đã ghi lời trên đá
và cô đơn đã ghi dấu trên tay
chân đã bước trên lối về hoang vắng
còn chăng em nghĩa sống ngực căng đầy
(……)
ta sẽ gặp trong ý tình vũ bão
con thuyền hồn trở lại bến hoang sơ.
(Thơ Hoài Khanh / Bài Ngồi lại bên cầu.”)
B. Sự phong phú của tiếng Việt qua nghệ thuật chọn chữ.
Chính vì sự giầu có của tiếng Việt mà các nhà thơ Việt Nam có nhiều cơ hội chọn lựa những chữ thích hợp mà danh từ của giới làm thơ gọi là đắc địa.”
1- Nơi những áng thơ hay, người đọc ít nhiều thường gặp được những chữ đắc địa. Như một câu thơ sau đây, của Trần Dạ Từ:
Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang.
(Trích bài Nụ hồn đầu” thơ Trần Dạ Từ.)
Chữ đắt” nhất trong 2 câu thơ trên là hai chữ hết hồn.”
a- Trong trường hợp này, tiếng Việt cung cấp cho tác giả nhiều tiếng đồng nghĩa như: Giật mình. Kinh ngạc. Hoang mang. Hoảng hốt v.v...
b- Lại nữa, thay vì con ve,” tác giả có thể chọn con sâu,” con chim”… Nhưng chọn con ve” thì mới xác định được thời gian xẩy ra nụ hôn đầu” đó, là mùa hè.
c- Nhà thơ Nguyên Sa trong một bài thơ nổi tiếng, nhan đề Nga” cũng có hai câu thơ nhiều người thuộc là:
Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh…
Cũng vậy, bên cạnh chữ ốm,” sự phong phú của tiếng Việt cho phép tác giả có nhiều chữ khác như: Yếu. Bệnh. Đói.
Tìm Kiếm
Home » Unlabelled » Bằng thơ ca em hãy chứng minh rằng " tiếng việt của chúng ta giàu và đẹp".