Tìm Kiếm

Trình bày quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh

Trình bày quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Namvề tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh

a) Khái niệm tư tưởng
- Khái niệm tư tưởng
+ Hiểu theo nghĩa phổ thông, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh (thông thường người ta cũng quan niệm tư tưởng là suy nghĩ hoặc ý nghĩ).
+ Khái niệm “tư tưởng” trong “Tư tưởng Hồ Chí Minh” không phải dùng với nghĩa tinh thần - tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng thế giới quan và phương pháp luận (nền tảng triết học) nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
+ Khái niệm “tư tưởng” thường liên quan trực tiếp đến khái niệm “nhà tư tưởng”.
Theo từ điển tiếng Việt, “nhà tư tưởng” là những người có những tư tưởng triết học sâu sắc.
Lênin cũng đã lưu ý rằng: Một người xứng đáng là nhà tư tưởng khi nào biết giải quyết trước người khác tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
Như vậy, nhà tư tưởng là người có tư tưởng (hiểu theo nghĩa khoa học) và tư tưởng của họ được thể hiện bằng tác phẩm, cùng với hoạt động thực tiễn của họ phải gây được ảnh hưởng đối với một bộ phận dân cư nhất định.
Với hai khái niệm trên chúng ta có thể khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng thực thụ và tư tưởng của Người có vị trí, vai trò và tầm quan trọng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
b) Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời từ rất sớm (1919 với tác phẩm “Yêu sách của nhân dân An Nam”, 1927 với tác phẩm “Đường Kách mệnh”, 1930 với “Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam”), nhưng vì bối cảnh quốc tế và trong nước chưa thuận lợi mà môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được triển khai.
- Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được định nghĩa tại Đại hội VII và được hoàn chỉnh thêm ở Đại hội IX. Kể từ 1991, thời điểm chín muồi về bối cảnh quốc tế và trong nước, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh mới được triển khai nghiên cứu, học tập ở Việt Nam.
- Định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta chỉ rõ:
1. Bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những vấn đề có liên quan đến quá trình phát triển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. 
3. Chỉ ra nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền thống dân tộc, trí tuệ thời đại.
4. Mục tiêu của tư tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.
- Từ đó (1991) cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về tư tưởng Hồ Chí Minh ở các góc độ của mỗi khoa học cụ thể. Tuy nhiên, từ định hướng của Đại hội IX, ở góc độ khoa học lý luận thì định nghĩa sau đây của Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh được in trong Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, dùng trong các trường Cao đẳng và Đại học, năm 2003 (dù đang vận động), năm 2009, 2010 được coi là khá hoàn thiện nhất cho đến ngày nay:
 “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một  hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển CNMLN vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người”[1]. 
- Dù định nghĩa theo cách nào, thì tư tưởng Hồ Chí Minh đều được nhìn nhận với tư cách là một hệ thống lý luận. Hiện đang tồn tại hai phương thức tiếp cận hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tri thức tổng hợp gồm: tư tưởng triết học, tư tưởng kinh tế, tư tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, tư tưởng đạo đức-văn hóa-nhân văn.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam: tư tưởng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam; về Đảng Cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; về dân chủ và Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về văn hóa và đạo đức...
Giáo trình này (GTTTHCM dùng trong các trường CĐ và ĐH xuất bản năm 2009, 2010) tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh theo phương thức thứ 2, nhằm giới thiệu với người học những nội dung sau:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức và xây dựng con người mới.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta vượt qua muôn trùng khó khăn để đi đến những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận, có cấu trúc lôgic chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
- Không chỉ ở Việt Nam mà ở cả nhiều nước trên thế giới, nhiều chính khách, nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn nhận và khẳng định Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, một nhà lý luận cách mạng độc đáo.





[1] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, trang 19.